Tính đặc thù theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta
Kinh tế thị trường khắc phục được kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng công nghệ - kỹ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội hợp lý, tiết kiệm,... Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường được coi là chiếc “đòn xeo” để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN) nền sản xuất. Không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này lại là bản sao của kinh tế thị trường ở nước khác. Trong các tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường khác, phải kể đến định hướng chính trị, kinh tế, xã hội chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế. Ở nước ta những định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường là: Thứ nhất, thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thứ hai, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thứ ba, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Thứ tư, phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thứ năm, xây dựng một nền kinh tế thị trường hòa nhập vào nền kinh tế thị trường khu vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú đa phương, đa dạng.
Với định hướng trên, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác định là tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế; nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích lũy và đầu tư hiện đại hóa, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,... để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển.
Theo mục tiêu đó, có thể xác định những đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta: Một là, kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế còn kém phát triển. Kiểu tổ chức nền kinh tế này nhằm nhanh chóng đưa nước ta đạt đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung và theo khung khổ pháp luật của nhà nước XHCN. Ba là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Bốn là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế “mở” cả với bên trong và với bên ngoài. Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội, hoạt động của cơ chế thị trường không chỉ chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường nói chung, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất chủ đạo. Do vậy, mô hình cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN) và trong nền kinh tế định hướng XHCN có những đặc điểm khác nhau cơ bản:
Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong khi phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết, hướng dẫn sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh - quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lời hoặc ít lãi.
Thứ hai, về tính giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước. Trong cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột TBCN. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, thì sự can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó bảo đảm tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích XHCN theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: Một là, Nhà nước XHCN là nhân tố đóng vai trò “nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng vai trò “trung gian” giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
Thứ tư, về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội. Trong sự phát triển của kinh tế thị trường TBCN, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Song, vấn đề đó không bao giờ và không thể nào giải quyết được triệt để trong chế độ TBCN. Mục đích giải quyết các vấn đề xã hội của các chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, chỉ được xem là phương tiện để duy trì chế độ TBCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế thị trường mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững, môi trường sinh thái được bảo vệ.
Thứ năm, về phân phối thu nhập. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Đặc trưng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thể hiện: Một là, xác định các chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được, như tốc độ tăng GDP/người; các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế, việc làm; về xóa đói, giảm nghèo; về văn hóa - xã hội; bảo vệ môi trường sinh thái,... Hai là, nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước XHCN trong chế độ bảo hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có chính sách bảo đảm xã hội đối với những đối tượng đặc biệt (gia đình có công với cách mạng, thương binh, người tàn tật,...).
Tình hình đó đặt ra cho kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà 3 vấn đề sau đây: 1- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể của kinh tế thị trường có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. 2- Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội,... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. 3- Điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giàu và nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay vẫn còn mang nặng những đặc điểm: Một là, kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế quá độ. Tính quá độ thể hiện ở chỗ trong nền kinh tế bao gồm nhiều loại hình sản xuất hàng hóa đan xen nhau: sản xuất hàng hóa XHCN, sản xuất hàng hóa TBCN và sản xuất hàng hóa nhỏ... (nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia sản xuất hàng hóa). Mỗi kiểu sản xuất hàng hóa có những nét đặc thù về bản chất kinh tế - xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân thống nhất, hình thành và chịu sự chi phối của một thị trường xã hội thống nhất với các quan hệ cung - cầu, giá cả chung, một đồng tiền chung... Bởi vậy, các loại hình sản xuất này vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Nhưng các kiểu sản xuất hàng hóa này không còn giữ nguyên bản chất, vì nó mang tính chất quá độ. Nhân tố kinh tế và quan hệ kinh tế trong sản xuất hàng hóa của mỗi thành phần kinh tế đều đã xuất hiện những cái mới. Ví dụ, trong sản xuất hàng hóa TBCN đã có những nhân tố kinh tế của kinh tế nhà nước, như điện, nước, kết cấu hạ tầng, thông tin liên lạc,... và đã có những quan hệ kinh tế với các thành phần kinh tế khác, chịu sự quản lý của Nhà nước XHCN...Trong nền kinh tế thị trường quá độ, sản xuất hàng hóa XHCN giữ vai trò chủ đạo, định hướng đối với các kiểu sản xuất hàng hóa khác. Hai là, kinh tế thị trường còn ở trình độ chưa phát triển. Biểu hiện ở số lượng mặt hàng và chủng loại hàng hóa nghèo nàn, khối lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa cao, chất lượng hàng hóa thấp, quy mô và dung lượng thị trường hạn hẹp; sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hóa trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài còn yếu; đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp, do đó sức mua còn hạn chế; nhiều loại thị trường còn ở trình độ thấp, như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường sức lao động,... Trình độ phát triển thấp của sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động xã hội kém phát triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn, từ sự nhận thức giản đơn về CNXH... Ba là, nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ càng phát triển càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển đạt trình độ xã hội hóa cao, dẫn đến quá trình khu vực hóa, quốc tế hóa nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển kinh tế thị trường không chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước, mà còn phải tính đến quan hệ kinh tế quốc tế, đến xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế. Nền kinh tế thị trường của mỗi quốc gia muốn phát triển thuận lợi không thể không gắn với thị trường thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã làm cho số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, mà bất cứ một nước nào dù là nước phát triển nhất cũng không thể sản xuất tất cả các loại hàng hóa. Vì vậy, mỗi nước phải tùy theo lợi thế của mình, lựa chọn những mặt hàng sản xuất có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất hàng hóa ở nước ta chỉ có thể phát triển mạnh mẽ nếu thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng những tiến bộ công nghệ, kỹ thuật hiện đại của thế giới để khai thác những tiềm năng còn rất lớn trong nền kinh tế. Muốn vậy, con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế mới hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Bốn là, phát triển kinh tế thị trường gắn với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển kinh tế thị trường gắn với nền kinh tế mở là tất yếu, nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, thì cũng có nguy cơ du nhập những yếu tố văn hóa xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn giữ được nền kinh tế thị trường mang bản sắc văn hóa Việt Nam phải thực hiện có hiệu quả sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả của đồng tiền, không chấp nhận việc thương mại hóa mọi hoạt động đời sống xã hội, mà đề cao những chuẩn mực giá trị văn hóa và đạo đức, đồng thời đấu tranh xóa bỏ những tập tục và lối sống cổ hủ, lạc hậu. Kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại với việc giữ gìn những yếu tố tinh tuý của văn hóa dân tộc, xây dựng những nhân tố văn hóa XHCN.
Ở nước ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm bảo đảm các yêu cầu sau: Tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với những tiến bộ về công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu “mọi lợi ích đều vì dân”, giải phóng con người, con người phát triển toàn diện. Phát triển kinh tế cao dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế tập thể là nền tảng của kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế khác phát triển theo sự quản lý của Nhà nước. Tính năng động của cơ chế thị trường phải gắn với sự quản lý của Nhà nước. Đa dạng các hình thức phân phối, phân phối theo lao động ngày càng chi phối. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện quan hệ giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước, nhằm phát huy sức mạnh tổng thể quốc gia. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo nguyên tắc ngày càng tăng nhanh sức sống nội sinh của dân tộc, biến yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh.
Để phát triển kinh tế thị trưởng định hướng XHCN cần thực hiện những giải pháp sau:
Một là, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Hai là, mở rộng phân công lao động, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ba là, tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Bốn là, đẩy mạnh cách mạng khoa học - công nghệ, nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm là, giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả. Sáu là, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi, phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bảy là, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường./.
Đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong công nhân  (18/09/2013)
Đánh giá thực trạng ô nhiễm không khí tại Việt Nam  (18/09/2013)
May hơn khôn  (18/09/2013)
Việt Nam đi đúng hướng trên con đường phát triển  (18/09/2013)
WTO đánh giá cao sự thay đổi chính sách của Việt Nam  (18/09/2013)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển