TCCSĐT - Toàn cầu hóa ẩn chứa cuộc cạnh tranh với quy mô ngày càng lớn giữa các doanh nghiệp, các nền kinh tế quốc gia. Thương hiệu quốc gia, thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm… muốn không bị thế giới lãng quên phải được củng cố, xây dựng trên những chuẩn mực được thị trường chấp nhận.

Nền kinh tế thế giới đang vận hành theo mô hình chuỗi giá trị toàn cầu, nghĩa là mỗi một quốc gia trở thành một mắt xích trong việc chế tạo ra các bộ phận hợp thành một sản phẩm hàng hóa hoàn chỉnh để có thể tận dụng hết các thế mạnh của nhau. Vì thế chúng ta cần phải cơ cấu lại nền kinh tế để Việt Nam có thể khởi xướng hoặc tham gia mạnh hơn vào “dòng thác” này.

Xuất khẩu nông sản: Những kết quả bước đầu

Trong lĩnh vực nông nghiệp, bên cạnh việc coi trọng thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản được coi là một trong những định hướng chiến lược của phát triển nông nghiệp Việt Nam, một “cứu cánh” của nền kinh tế trong bối cảnh suy thoái.

Năm 2008, những mặt hàng đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD những năm trước tiếp tục duy trì ở mức cao như thủy sản (4,56 tỷ USD), gạo (2,9 tỷ USD), cà phê (2 tỷ USD), cao su (1,6 tỷ USD). Kết thúc năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản đã đạt 15,4 tỷ USD. Trong đó riêng nông sản đạt trên 8 tỷ USD, thuỷ sản khoảng 4 tỷ USD, lâm sản gần 2,6 tỷ USD...

Năm 2011 là năm xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt mức kỷ lục 25 tỷ USD (tăng 30,5% so với năm 2010, chiếm 22% tổng kim ngạch xuất khẩu) Trong đó, có 4 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD là thủy sản (6,1 tỷ USD), gỗ và lâm sản (4,1 tỷ USD), gạo (3,7 tỷ USD) và cao su (3,3 tỷ USD). Với mức xuất siêu 9,2 tỷ USD, nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã viết tiếp kỳ tích, góp phần giảm nhập siêu của cả nước. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2011 tăng mạnh chủ yếu do đơn giá của nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng, trong đó giá hạt tiêu tăng 65%; giá hạt điều tăng 42%; giá cà phê tăng 44%; giá cao su tăng 29%; giá gạo tăng 9%... Kết quả là tăng giá đóng góp trên 70% gia tăng cho xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong năm 2011.

Năm 2012, Việt Nam ước xuất khẩu được 8 triệu tấn gạo, đứng thứ 2 thế giới sau Ấn Độ (khoảng 9,7 triệu tấn). Cà phê vượt qua Braxin, Colombia giành ngôi đầu. Hạt tiêu vẫn giữ ngôi “quán quân” thế giới, chiếm khoảng 40 - 50% lượng hồ tiêu giao dịch toàn cầu. Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về sản suất cao su thiên nhiên và đứng thứ 4 về xuất khẩu cao su.

Tỷ trọng hàng nông, lâm sản xuất khẩu hiện chiếm khoảng 30 - 35% khối lượng hàng hóa nông sản thực phẩm, trong đó lúa gạo chiếm khoảng 40%, cà phê: 95%, cao su: 85%, hạt điều: 90%, chè: 80%, hạt tiêu: 95%… Ngoài các khu vực tiêu thụ truyền thống như Trung Quốc, ASEAN, Liêng bang Nga và các nước Đông Âu, nông sản Việt Nam cũng đã bước đầu thâm nhập thị trường Trung Đông, EU, Mỹ và châu Phi.

Những hạn chế, khó khăn

Mô hình thị phần không đổi (Constant Market Share Model - CMS) lần đầu tiên được Tyszynski (năm1951) sử dụng trong phân tích mậu dịch thế giới và lợi thế cạnh tranh và ngày càng trở nên phổ biến trong những nghiên cứu về xuất khẩu và phân tích lợi thế so sánh trên thế giới. Theo đó, sự biến động xuất khẩu nông sản vào một thị trường tiêu thụ nào đó sẽ phụ thuộc vào 3 yếu tố: (1) tác động thị trường của chính loại nông sản đó (tác động cầu - demand effect); (2) tác động tăng trưởng của toàn bộ thị trường tiêu thụ (tác động cấu trúc - commondity effect hay structural effect) và (3) khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu (competitiveness effect).

Kết quả phân tích thử nghiệm mô hình CMS ở thị trường Trung Quốc cho thấy: khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam giảm là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến giá trị xuất khẩu của hầu hết những mặt hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giảm sút. Việc giảm khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam đôi khi được bù đắp bằng sự tăng cầu của thị trường Trung Quốc. Nói cách khác, tăng nhập khẩu của thị trường Trung Quốc đã trở thành động lực thúc đẩy cho xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng lên chứ không phải do khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam được cải thiện. Do đó, để tiếp tục duy trì và gia tăng xuất khẩu nông sản, một sự điều chỉnh là rất cần thiết đối với khu vực sản xuất nông nghiệp của Việt Nam nói chung và chiến lược xuất khẩu nông sản nói riêng.

Theo ông Chu-pai Páp-han, chuyên viên cao cấp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thị trường nông sản thế giới sẽ chịu tác động lớn của các cuộc thương lượng mậu dịch mang tầm quốc tế. Việc Việt Nam phải cạnh tranh với các sản phẩm nông nghiệp của các nước thành viên của WTO cả ở thị trường trong và ngoài nước là điều không phải bàn cãi.

Mỗi năm, Việt Nam thiệt hại hơn 14 triệu đô la Mỹ do hàng xuất khẩu bị trả lại. The FishSite News Desk (Hoa Kỳ) cho hay trên thực tế, nhiều lô hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam bị các nhà nhập khẩu từ chối vì có dư lượng thuốc kháng sinh cao. Từ ngày 31-8-2012, cơ quan thẩm quyền Nhật Bản đã kiểm tra 100% lô tôm nhập khẩu từ Việt Nam, với hàm lượng Ethoxyquin cho phép rất thấp, chỉ 0,01 ppm. Mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam là lúa gạo cũng phải đối mặt với những rủi ro tương tự (Nhật Bản đã từng cảnh báo gạo Việt Nam có chứa Acetarmiprid vào năm 2007). Hiệp hội Điều Australia cũng cho hay, nước này có thể sẽ cấm một số doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Australia vì chất lượng không bảo đảm. Đối với thị trường EU, Việt Nam là một trong các nước có tỷ lệ sản phẩm bị từ chối nhập khẩu cao nhất.

Sản xuất nông nghiệp lạc hậu, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí cao và nhất là sự yếu kém của ngành công nghiệp chế biến sẽ là những thách thức rất lớn của nông sản Việt Nam khi “vượt biên xuất ngoại”. Nhìn chung, xuất khẩu với hàm lượng gia tăng thấp là vấn đề đã đặt ra từ hàng chục năm nay. Nỗ lực để đổi từ "lượng sang chất", từ “manh mún sang tập trung”; từ “thô sang tinh”... rất chậm. Đó là một trong các lý do mà vì sao chúng ta có rất nhiều mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu thế giới nhưng nông dân Việt Nam vẫn nghèo.

Theo đánh giá của các chuyên gia, khả năng tăng khối lượng xuất khẩu cũng đang gặp phải thách thức lớn khi hầu hết các cây trồng đã phát triển đến ngưỡng cả về diện tích và năng suất. Trong tương lai gần, nông nghiệp Việt Nam rất khó tiếp tục duy trì thành tích tăng trưởng ấn tượng về sản lượng và xuất khẩu nếu không có những bước đột phá về khoa học công nghệ, tổ chức chuỗi cung ứng và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, nếu xác định chiến lược chung của nền kinh tế là “hướng về xuất khẩu” thì kinh tế nông thôn, nông nghiệp sẽ sản xuất cái gì ra thị trường thế giới và khu vực? Việt Nam chủ trương xuất lúa gạo là chủ yếu hay chuyển hướng sang sản xuất thịt là chủ yếu? Nếu xuất lúa gạo thì chiến lược cạnh tranh với Thái lan, Mianma, Ấn Độ…sẽ như thế nào? Nếu xuất khẩu thịt là chủ yếu - đương nhiên thị trường nhập khẩu sẽ là các nước giàu, có khả năng thanh toán tốt hơn, nhưng lại đòi hỏi công nghệ chăn nuôi và chế biến khắt khe hơn, liệu có quá khả năng của Việt Nam hay không?

Đối với các loại nông sản thực phẩm khác, chúng ta đi theo hướng “đồng dạng” với các nước khác hay Việt Nam có những con đường riêng để đi vào thị trường nông sản thực phẩm thế giới mà ta có lợi thế? Liệu có một số nông sản thực phẩm cao cấp, đặc trưng của vùng nhiệt đới dưới dạng “sạch” và thân thiện với môi trường có thể là hướng chiến lược để lựa chọn được không? Thực tiễn Việt Nam cho thấy chúng ta có khả năng cả về lao động, điều kiện địa lý, tự nhiên để sản xuất những mặt hàng này. Những định hướng, lựa chọn nêu trên có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ hệ thống nông nghiệp, chi phối mạnh mẽ sự lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn trong những thập kỷ tới cũng như chiến lược và kế hoạch kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.

Một số giải pháp cho những năm tới

Đổi mới công tác thông tin, dự báo

Một nguyên nhân chính khiến giá trị sản xuất nông nghiệp vừa qua chưa cao là do khâu thông tin, dự báo thị trường chưa tốt. Vì thế, cần phải có những “đột phá” trong lĩnh vực này. Đầu tư thay đổi hệ thống, công nghệ dự báo thị trường là những bước đi đầu tiên.

Cần sớm hình thành cơ chế phối hợp thông tin không chỉ giữa các cơ quan quản lý với nhau, với các hiệp hội ngành hàng, mà cần thiết lập kênh thông tin với nông dân, doanh nghiệp chế biến, thu mua nông sản. Cơ chế thu thập, xử lý thông tin cũng cần đổi mới theo hướng đi sâu vào từng ngành hàng.

Xây dựng và tạo lập một nền nông nghiệp hữu cơ đi đôi với với xác lập chiến lược xuất khẩu nông sản

“Khoán 10” là thành tựu của một giai đoạn. Giờ động lực của đổi mới năng suất cây trồng không chỉ còn ở ý chí làm chủ của người nông dân nữa mà chủ yếu phải là dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao. Lấy tiến bộ khoa học làm “đòn bẩy” cho phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Chiến lược phát triển nông nghiệp phải hướng tới hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung nhằm tạo điều kiện đầu tư, ứng dụng các thành tựu mới của khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá. Để bảo đảm chất lượng của sản phẩm cho xuất khẩu nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, điều nhất thiết cần làm hiện nay là rà soát lại diện tích trồng các loại cây hiện có. Cũng cần xem những diện tích cây trồng nào đem lại năng suất cao, chất lượng tốt sẽ giữ lại để phát triển lâu dài, còn những diện tích không thích hợp cần phải cơ cấu lại.

Theo đó, việc hình thành được chuỗi liên kết để kiểm soát chặt từ khâu sản xuất, chế biến, đến tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng. Chuỗi liên kết này phải được thiết lập trên cơ sở tổng thể quy hoạch phát triển nông nghiệp, với sự tham gia tích cực của 4 “nhà”: doanh nghiệp, người dân, nhà khoa học và Nhà nước. Chất lượng nông sản đảm bảo “sạch” sẽ giúp nâng cao giá trị các sản phẩm nông nghiệp. Việc làm “sạch” khâu nuôi trồng sẽ mang lại nguồn nguyên liệu chế biến dồi dào, bảo đảm chất lượng đồng đều, đáp ứng yêu cầu ngày càng khó tính của thị trường. Yêu cầu này đang bị thách thức khi thói quen canh tác lạc hậu của một bộ phận không nhỏ nông dân chưa được thay đổi. Trong khi đây mới là yếu tố quyết định thắng bại trên thương trường.

Để khắc phục tình trạng này, nên gấp rút hình thành hệ thống tiêu chuẩn, các phòng kiểm nghiệm đánh giá chất lượng sản phẩm nông sản. Việc tăng cường năng lực kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng cũng cần được coi trọng nhằm xử lý “mạnh tay” các trường hợp cố tình áp dụng kỹ thuật nuôi trồng có hại cho môi trường, làm “bẩn” nông phẩm.

Theo các chuyên gia nông nghiệp, để làm được cuộc “cách mạng” trong khâu nuôi trồng theo hướng “sạch”, cần gắn việc đẩy nhanh quá trình chuyển giao các loại cây, con có giá trị kinh tế cao vào sản xuất với khuyến cáo nông dân phải luôn đặt yếu tố sản xuất ra các sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm lên hàng đầu. Chuyển dịch nông nghiệp theo hướng sản xuất “sạch”, chất lượng cao tự thân nó đã tạo dựng được “chứng chỉ ” chứng minh cho chất lượng nông sản đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, cũng như giá trị dinh dưỡng. Điều này sẽ tạo thuận lợi lớn cho khâu tiêu thụ, mang lại giá trị gia tăng cao hơn.

Hiện còn khoảng cách khá xa giữa khâu sản xuất và chế biến, nên giá trị hàng nông sản chưa cao. Nhà nước nên có cơ chế khuyến khích, kể cả hỗ trợ phù hợp để gia tăng sự gắn kết này, đầu tư cho chế biến ở quy mô lớn, với công nghệ hiện đại giúp vừa chủ động trong tổ chức thị trường tiêu thụ, vừa tăng được giá trị hàng nông sản.

“Nông dân không thể làm ăn cá thể mãi. Nhà nước cần có chính sách kết hợp với các doanh nghiệp cung cấp quy trình sản xuất ổn định, đào tạo nâng cao trình độ, kỹ thuật tay nghề cho nông dân. Hơn lúc nào hết, doanh nghiệp phải dẫn đầu giúp nông dân cập nhật khoa học kỹ thuật, nhất là tìm ra giống cây, con mới năng suất cao,để nông dân không “đi một mình” và dần khẳng định thị trường đầu ra của sản phẩm nông nghiệp” - GS, TS. Võ Tòng Xuân nhấn mạnh khi trao đổi vấn đề này với báo giới.

Phát triển công nghiệp chế biến nông sản

Chỉ khi nền nông nghiệp được quản lý theo chuỗi giá trị sản xuất thì mới nâng cao được giá trị nông sản. Như vậy, các khâu từ sản xuất nguyên liệu, chế biến, tiêu thụ sản phẩm phải gắn kết chặt chẽ với nhau. Theo đó có 3 mối quan hệ cần được xử lý: Nhà nước và doanh nghiệp, nông dân - doanh nghiệp với nông dân - thị trường trong nước với nước ngoài. Đồng thời, có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp, nông dân đầu tư mạnh cho công nghệ sau thu hoạch, khâu bảo quản, chế biến để hạn chế thất thoát, nâng cao giá trị nông sản.

Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng sản xuất còn rất thấp (chè: 55%; rau quả: 5%, thịt: 1%…). Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu là:

- Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn theo định hướng xuất khẩu. Từ đó, tập trung đầu tư thâm canh và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu.

- Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu. Có những chính sách ưu đãi kích thích sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu.

Liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản

So với một số nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có điều kiện tự nhiên và cơ cấu sản xuất nông nghiệp khá tương đồng, song các nước này lại có lợi thế hơn Việt Nam ở trình độ khoa học - công nghệ và kinh nghiệm hoạt động thương mại quốc tế. Trong điều kiện đó, để bảo đảm hiệu quả của xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản, cần coi trọng việc mở rộng quan hệ liên kết quốc tế trong cả sản xuất và xuất khẩu. Quan hệ liên kết này có thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

- Phối hợp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học - công nghệ để tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có khả năng cạnh tranh cao.

- Phối hợp xây dựng hệ thống dịch vụ kiểm dịch động thực vật xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế.

- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển nông nghiệp và nông thôn.

- Phối hợp các chính sách thương mại của các nước trong khu vực trong thực hiện hoạt động xuất khẩu nông sản.

- Hình thành các Hiệp hội theo ngành hàng để phối hợp hành động trên thị trường quốc tế…/.