Nâng cao hiệu quả trong quản lý Nhà nước về đất đai

TS. Phạm Việt Dũng Tạp chí Cộng sản
23:07, ngày 11-02-2013

TCCSĐT - Đất đai là vấn đề hệ trọng của quốc gia, là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất nước. Quản lý nhà nước về đất đai phải xem xét một cách toàn diện, đầy đủ ở các mặt kinh tế, chính trị, xã hội; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất.

Hội nghị Trung ương 6 Khóa XI đã ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Bài viết này góp phần làm rõ hơn những kết quả, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về đất đai thời gian qua và đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này.


1- Một số kết quả đạt được trong quản lý đất đai những năm qua

Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần đổi mới chính sách, pháp luật đất đai cho phù hợp với yêu cầu của phát triển kinh tế. Chính sách đất đai đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được các nghị quyết Đại hội VI và các nghị quyết Bộ Chính trị khóa VI (năm 1998) nhấn mạnh theo hướng coi trọng vị trí đặc biệt của nông nghiệp, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp, phát huy triệt để vai trò chủ động của hộ nông dân. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội VII và Nghị quyết Trung ương 2 khóa VII (năm 1992) đã đề ra chủ trương: ruộng đất thuộc quyền sở hữu toàn dân, giao cho nông dân quyền sử dụng lâu dài; Nghị quyết Trung ương 5 khóa VII (năm 1993) khẳng định: kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn xác định: “Sửa đổi Luật Đất đai theo hướng: tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để sử dụng có hiệu quả; giao đất cho hộ gia đình sử dụng lâu dài; mở rộng hạn mức sử dụng đất; thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai; công nhận quyền sử dụng đất được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất, kinh doanh”(1).

Nghị quyết Đại hội VIII đã xác lập chủ trương, mở đường cho sự hình thành thị trường bất động sản. Nghị quyết Đại hội IX, X đã phát triển, xác lập cơ chế cho sự hình thành thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản góp phần tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và gần đây nhất, Nghị quyết Trung ương 6 Khóa XI đã thể hiện những bước tiến quan trọng trong đổi mới nhận thức, phát triển tư duy và thể chế hóa thành hành động thực tiễn của Đảng và Nhà nước đối với sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai theo hướng từng bước phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Cùng với đó, quản lý nhà nước về đất đai đã có những tiến bộ rõ rệt góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho dân cư, cải thiện môi trường sống chung, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường, quyền quản lý đất đai được phân cấp nhiều hơn cho chính quyền địa phương. Các cơ sở dữ liệu về đất đai ngày càng phong phú hơn, đầy đủ hơn, chính xác hơn và được chuẩn hóa, lưu giữ khoa học hơn. Quyền sử dụng đất đã bước đầu trở thành tài sản để Nhà nước và nhân dân vốn hóa đưa vào đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội. Thị trường bất động sản, hệ thống chính sách tài chính về đất đai bước đầu hình thành, tuy còn sơ khai nhưng đã khuyến khích sử dụng đất hiệu quả hơn, mang về nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước và dân cư.

Sự tiến bộ của công tác quản lý nhà nước về đất đai có thể khái quát ở những mặt chính sau:

- Chính sách đất đai đã chú ý tới các mặt kinh tế, xã hội và chính trị; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng và nhà đầu tư.

- Việc khai thác, sử dụng đất đã đúng mục đích hơn, đã phát huy tốt được tiềm năng, nguồn lực đất đai vào phát triển đất nước.

- Việc lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở các cấp đang dần đi vào ổn định.

- Đã cơ bản hoàn thành thực hiện việc giao, cho thuê đất cho các hộ gia đình và các cá nhân sử dụng, góp phần vào sự ổn định xã hội, tạo nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội.

- Triển khai từng bước công tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng góp phần vào xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Trật tự trong quản lý đất đai được thiết lập theo pháp luật, bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương, có chế tài nghiêm trong thực thi chính sách, pháp luật đất đai.

Những kết quả trên đây đã góp phần tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai hiệu quả hơn, góp phần vào quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Diện tích đất dành cho đô thị tăng nhanh, góp phần hình thành mạng lưới đô thị phân bố tương đối hợp lý trên cả nước. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị diện tích không ngừng tăng (Nếu như năm 2004, giá trị sản xuất trồng trọt bình quân cả nước là 21 triệu đồng/ha thì đến năm 2011 là 55 triệu đồng/ha)(2). Ngân sách các địa phương thu từ đất đai tăng nhanh, diện mạo nông thôn được cải thiện. Quyền và lợi ích hợp pháp của người dân liên quan đến đất đai cơ bản được bảo đảm.

2. Một số hạn chế, bất cập trong quản lý nhà nước về đất đai

Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy còn nhiều bất cập, hạn chế trong quản lý đất đai, như: một số chủ trương, chính sách lớn chậm được triển khai trong thực tiễn như tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quá chậm, giá đất do Nhà nước quy định chưa sát giá thị trường, thiếu cơ chế quản lý phù hợp thị trường bất động sản, vấn đề hạn điền, vấn đề quản lý và sử dụng đất theo quy hoạch còn nhiều vướng mắc... Do còn những bất cập này nên đất đai chưa được quản lý chặt chẽ, hiệu quả sử dụng đất còn thấp, đất sản xuất nông nghiệp còn manh mún, diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất bị xói mòn còn lớn, việc sử dụng đất còn lãng phí. Tình trạng vi phạm nghiêm trọng pháp luật đất đai vẫn diễn ra và chưa có hướng khắc phục triệt để. Việc Nhà nước thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện còn khó khăn, gây nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo phức tạp. Những tác động tiêu cực của thị trường bất động sản như đầu cơ, thổi giá…, do chưa có cơ chế, chính sách phù hợp và do buông lỏng quản lý, đã gây nhiều khó khăn, cản trở cho đầu tư phát triển cũng như giải quyết nhu cầu nhà ở cho số đông dân cư.

Những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước về đất đai có thể khái quát ở một số mặt sau:

Trong công tác quy hoạch và kế hoạch, việc triển khai công tác này còn mang nặng tính hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, thể hiện ở một số điểm sau: chậm tiến độ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở các cấp, nhất là cấp huyện và cấp xã, phường; thiếu đồng bộ giữa quy hoạch sử dụng đất của các cấp và quy hoạch chi tiết của các ngành; còn nhiều bất hợp lý, thiếu sự thống nhất dẫn đến chồng chéo, nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn.

Việc minh bạch, công khai và quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn yếu dẫn đến tình trạng nhiều dự án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã lập xong trong nhiều năm nhưng vẫn không được triển khai thực hiện trên thực tế, nhiều khi không sát với kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; sự phối hợp của các cấp, các ngành trong việc lập, thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn chưa chặt chẽ...

Trong việc giao, cho thuê và sử dụng đất, công tác giao đất, cho thuê đất vào mục đích chuyên dùng và đất ở tại các địa phương còn một số tồn tại và bất cập, còn xảy ra tình trạng nhiều công trình sử dụng đất không đúng với quyết định giao đất, cho thuê đất gây ảnh hưởng đến quy hoạch chung cũng như nhiều bất cập khác. Nhiều hiện tượng giao đất để xây dựng công trình khi chưa có quy hoạch tổng thể hay kế hoạch sử dụng đất dẫn đến không bảo đảm điều kiện kết cấu hạ tầng cũng như các điều kiện về vệ sinh môi trường.

Việc sử dụng đất cũng có nhiều sai phạm, như: sử dụng không đúng mục đích được giao; sai diện tích, vị trí; không đúng tiến độ; không sử dụng đất hoặc bỏ hoang,…

Cơ chế quản lý tài chính đất đai, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, gây nhiều bất hợp lý dẫn đến lãng phí, thất thoát và sai phạm liên quan đến tài chính đất đai. Biểu hiện rõ nhất là thị trường bất động sản còn hoạt động tự phát, giao dịch “ngầm” là chủ yếu, tình trạng đầu cơ đất đai đẩy giá đất lên cao, đặc biệt là ở đô thị; chính sách quản lý đầu tư kinh doanh bất động sản còn nhiều sở hở, gây tác động xấu đến môi trường đầu tư, ảnh hưởng đến sự lành mạnh của thị trường bất động sản và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Trong hoạt động của bộ máy quản lý, nhìn chung, trình độ, năng lực cán bộ ngành địa chính, đặc biệt cán bộ địa chính ở cơ sở còn hạn chế và yếu kém. Hệ quả là tình trạng vi phạm pháp luật trong quản lý và sử đụng đất còn phổ biến, đặc biệt trong: giao, cho thuê đất; chuyển mục đích sử dụng đất; sử dụng đất không đúng mục đích; lúng túng trong thực hiện phân công, tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến đất đai,… làm giảm hiệu lực quản lý đất đai.

Trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, có thể nói, đây là vấn đề bộc lộ rất nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến gây nhiều bất bình trong dân, mặt khác nhiều dự án, trong đó có các dự án, công trình trọng điểm của Nhà nước không thực hiện đúng tiến độ do giải phóng mặt bằng chậm. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhiều nơi còn thực hiện chưa đúng quy định, quy trình cũng như chưa bảo đảm minh bạch, công khai.

Những hạn chế, yếu kém trên dẫn đến tình trạng khiếu kiện về đất đai còn phức tạp, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai còn chậm, nhiều khi chồng chéo, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội.

3. Nguyên nhân của những hạn chế trên

Những hạn chế, yếu kém trên, một phần là do đất đai có nguồn gốc lịch sử và pháp lý rất phức tạp do chính sách đất đai biến đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử với các chế độ sở hữu và cơ chế quản lý đất đai khác nhau, nhất là do chuyển từ mô hình quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp sang cơ chế quản lý thích hợp với thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Phần khác, nguyên nhân của yếu kém kể trên là do một số chủ trương, chính sách đất đai của Đảng ta chậm được đổi mới, cơ chế quản lý của Nhà nước đối với đất đai chưa thật sự hợp lý, nhất là hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai hiện hành vừa phức tạp, vừa chồng chéo, vừa lạc hậu so với thực tiễn nên khó thực hiện, đồng thời tạo nhiều kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng.

Đối với quản lý nhà nước về đất đai, có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất là, chính sách trong quản lý đất đai nhiều khi chưa nhanh nhạy, chưa thích nghi với những biến đổi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam từng bước hình thành, phát triển và hoàn thiện những yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với quản lý đất đai, chúng ta đã từng bước giao quyền nhiều hơn cho người sử dụng đất. Tuy nhiên, các chính sách này nhiều khi còn chậm, vẫn còn nhiều rào cản gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất.

Thứ hai là, việc phân cấp trong quản lý nhà nước về đất đai hiện nay còn nhiều điểm chưa hợp lý dẫn đến chồng chéo về thẩm quyền giữa các cấp, các ngành trong tổ chức lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nhiều bất cập trong phân hạng và định giá đất; nhiều sai phạm trong đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; việc thanh kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu kiện và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai còn nhiều lúng túng…

Thứ ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được quan tâm ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công việc, đặc biệt đối với đội ngũ địa chính cấp xã bởi họ đóng vai trò rất quan trọng trong việc giám sát việc thi hành pháp luật đất đai của chính quyền cơ sở và các đối tượng sử dụng đất. Ngoài ra, chức năng, nhiệm vụ của ngành địa chính chưa được rõ ràng, chưa thực sự mang tính chất chuyên trách. Chưa kể, sự xuống cấp, tha hóa của một bộ phận cán bộ ngành địa chính dẫn đến lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm việc tiêu cực, tham nhũng, gây mất lòng tin trong nhân dân khi thực hiện các quy định của pháp luật về đất đai.

Thứ tư là, hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến những tồn tại, bất cập trong công tác quản lý và sử dụng đất của nước ta hiện nay. Nhiều quy định của chính sách, pháp luật về đất đai đến nay không còn phù hợp với thực tiễn, thậm chí mâu thuẫn với quy định chuyên ngành như pháp luật về nhà ở, quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị…

Thứ năm là, sự thiếu chuyên nghiệp trong công tác quy hoạch, kế hoạch. Chất lượng công tác xây dựng quy hoạch từ cấp chiến lược đến quy hoạch vùng, ngành còn hạn chế; việc chỉ đạo điều hành thực hiện quy hoạch, kế hoạch thiếu thống nhất; thiếu sự phối kết hợp trong việc xây dựng quy hoạch với quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về đất đai cũng như trong chỉ đạo, điều hành việc thực hiện các chính sách này.

Thứ sáu là, việc thanh tra, xử lý những tình trạng vi phạm pháp luật đất đai còn yếu; chưa được thực hiện thường xuyên; việc xử lý những vi phạm pháp luật về đất đai chưa kịp thời và kiên quyết, chưa thật sự công khai, minh bạch đã ảnh hưởng không tốt tới lòng tin của người dân vào chính sách, pháp luật về đất đai.

4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai

Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện phân cấp về quản lý đất đai. Việc phân cấp trong quản lý nhà nước về đất đai phải bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả và không chồng chéo; vừa bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Trung ương, vừa bảo đảm quyền chủ động của địa phương... Công tác quy hoạch đất đai phải được quản lý thống nhất trong cả nước sao cho quy hoạch vùng, địa phương phải tuân thủ quy hoạch quốc gia, kể cả trong nội dung quy hoạch cũng như trong điều chỉnh và tổ chức thực hiện.

Cần nghiên cứu một cách toàn diện, khoa học để khắc phục sự chồng chéo về thẩm quyền giữa các cấp, các ngành trong việc tổ chức lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị; phân hạng và định giá đất; đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai… Có chế tài gắn trách nhiệm của các ngành, các cấp trong công tác quản lý đất đai. Khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh đất đai thông qua mệnh lệnh hành chính, chuẩn hóa và công khai thủ tục hành chính quản lý đất, áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý đất đai cũng như cung ứng dịch vụ quản lý đất đai cho người có nhu cầu.

Tạo điều kiện thông qua hoàn thiện khung pháp lý để khu vực tư nhân tham gia trong các khâu công việc như khảo sát, đo đạc bản đồ, định giá và thẩm định giá đất, thiết lập hệ thống thông tin về giá đất, đăng ký đất...

Hai là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán bộ, công chức ngành địa chính ở các cấp, nhất là cấp xã, phường. Chuẩn hóa bộ máy quản lý, làm rõ chức năng, nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ngành địa chính ở các cấp. Bố trí đủ số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức ngành địa chính các cấp, nhất là cấp xã, phường. Từng bước giảm thiểu tính chất kiêm nhiệm, nâng cao tính chất chuyên trách của đội ngũ này.

Ba là, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai, làm rõ quyền của người sử dụng trên các phương diện chiếm giữ, hưởng lợi, sử dụng, giao dịch dân sự với tư cách tài sản cũng như cơ chế để người sử dụng đất có thể bảo vệ quyền của mình khi các quyền của họ bị vi phạm.

Quy định rõ ràng, cụ thể hơn và thực thi đầy đủ, đúng đắn hơn các quyền của đại diện chủ sở hữu và quyền thống nhất quản lý của Nhà nước, đặc biệt là trong việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không phải do người sử dụng đất tạo ra; trao quyền sử dụng đất và thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của pháp luật; tái định cư, tổ chức lại sản xuất và bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực có đất bị thu hồi. Quy định rõ quyền của người sử dụng đất trong đó quyền sử dụng đất cũng là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu. Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn; được có một số quyền (chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp...) theo quy định của pháp luật và được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, có sự phân biệt các loại đất và nguồn gốc đất; đồng thời phải có nghĩa vụ chấp hành pháp luật về đất đai, phải đăng ký quyền sử dụng đất, sử dụng đất đúng mục đích, tuân thủ quy hoạch và chấp hành quyết định thu hồi đất của Nhà nước.

Các chính sách cũng bảo đảm phân chia lợi ích từ đất một cách công bằng giữa các nhóm lợi ích khác nhau (Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu; chủ thể đã được giao quyền sử dụng đất; chủ thể muốn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ người khác). Về nguyên tắc, nên sử dụng quan hệ thị trường và chính sách điều tiết địa tô của Nhà nước để cân bằng lợi ích. Tuy nhiên Nhà nước cũng cần có công cụ hỗ trợ thích hợp để có thể can thiệp vào việc chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp theo quy hoạch nhằm hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việc hoàn thiện pháp luật đất đai cần quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách đất đai của Đảng trong thời kỳ đổi mới, đáp ứng yêu cầu quản lý và sử dụng đất theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: quán triệt nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật; từng bước hoàn thiện các quy định về người sử dụng đất, quyền sử dụng đất và nội dung quản lý nhà nước về đất đai.

Bốn là, công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất phải được hoàn thiện theo Luật Đất đai, vừa bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Trung ương, vừa phát huy quyền chủ động của địa phương.

Thông qua công tác thống kê, kiểm kê đất định kỳ, các cấp chính quyền cần nắm chắc quỹ đất để thực hiện việc quản lý, sử dụng đất hiệu quả nhất phù hợp với mục tiêu phát triển chung của quốc gia cũng như từng địa phương.

Việc giao, thu hồi đất phải tuân thủ nghiêm túc quy hoạch ở các cấp; công tác đấu giá quyền sử dụng đất cần được tiến hành theo đúng quy trình, bảo đảm tính công khai, minh bạch.

Năm là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện quản lý đất đai. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đất đai đến từng người dân, đi đôi với thiết lập cơ chế hỗ trợ pháp lý cho người có quyền sử dụng đất để họ bảo vệ được quyền lợi của mình và chấp hành đầy đủ nghĩa vụ của người sử dụng đất. Mở các kênh truyền tải thông tin từ cơ quan quản lý đến người dân sử dụng đất. Tăng cường năng lực của cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai.

Sáu là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài trong quản lý đất đai. Việc nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước đã khá thành công trong quản lý nhà nước về đất đai là cần thiết. Ngoài ra, cũng cần đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế về đất đai thông qua việc duy trì các quan hệ truyền thống, tìm kiếm các đối tác mới, triển khai các dự án,… qua đó, ngoài việc nhận được sự hỗ trợ về tài chính, chúng ta còn học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong quản lý và sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn tài nguyên quý giá này./.

_____________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa X, (Hội nghị lần thứ ba, tư, năm, sáu, bảy và chín),  Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 500.
(2) Nguyễn Minh Quang, “Luật Đất đai năm 2003: Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn và kiến nghị bổ sung, sửa đổi”, Tạp chí Cộng sản, số 835, 5-2012