TCCSĐT - Sự phát triển của kinh tế thị trường là sự phát triển của một hệ thống, trong đó khâu then chốt là mối quan hệ giữa kinh tế với văn hoá và xã hội. Mối quan hệ này mang những đặc điểm khác nhau ở các nước đang phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, muốn xác định đúng những vấn đề đặt ra trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay, trước hết phải làm rõ những đặc điểm phát triển kinh tế thị trường ở nước ta trong thời đại hiện nay, vì chỉ trong phát triển kinh tế thị trường mới hình thành mối quan hệ giữa kinh tế với văn hoá và xã hội.

I - Đặc điểm phát triển kinh tế thị trường ở nước ta và sự hình thành mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện công bằng xã hội

Nhìn lại quá trình nước ta đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế, có thể rút ra một số đặc điểm phát triển kinh tế thị trường, hình thành mối quan hệ giữa kinh tế với văn hoá và xã hội.

Thứ nhất, nước ta chuyển sang kinh tế thị trường từ một nước nông nghiệp lạc hậu lại trải qua 30 năm chiến tranh. Vì vậy, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội chưa rõ nét. Do tình trạng nghèo đói giai đoạn sau chiến tranh 1975 - 1985, nên cả nước lấy "phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm" (đường lối của Đảng), chưa nghĩ đến và cũng chưa biết đến vai trò phát triển văn hoá và công bằng xã hội như một động lực phát triển kinh tế.

Căn cứ vào thực trạng kinh tế - xã hội (chứ không phải căn cứ vào lời nói) thì đã tách rời phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện công bằng xã hội trở thành thói quen trong tư duy và phương pháp lãnh đạo, quản lý và xóa đói, giảm nghèo coi như thực hiện một bước công bằng xã hội, trong khi khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng, hiệu quả đầu tư ngày càng thấp.

Thứ hai, nước ta chuyển sang kinh tế thị trường từ tình trạng nhà nước hoá nền kinh tế theo kế hoạch tập trung và bao cấp. Trong mô hình thể chế này coi trọng vấn đề xã hội theo quan điểm bao cấp bình quân, vì vậy không có động lực tăng trưởng kinh tế.

Tư duy lỗi thời về kinh tế, xã hội, văn hoá đó vẫn còn ít nhiều tác động trong suốt thời gian đổi mới cho đến nay. Quan hệ xin - cho (và sau này kèm theo phong bì hối lộ) vẫn còn đậm nét sau khi đã chuyển sang Nhà nước pháp quyền. Thực tế đó chỉ rõ, mối quan hệ giữa kinh tế với văn hoá và xã hội còn lạc hậu, đang là lực cản thực sự đổi mới nhu cầu phát triển cả ba lĩnh vực đó, cản trở sự hình thành mối quan hệ với nhau một cách hợp lý.

Thứ ba, nước ta phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế trong thời đại kinh tế mới. Đó là thời đại kinh tế thị trường chuyển từ giai đoạn phát triển kinh tế công nghiệp lên giai đoạn phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu hoá kinh tế.

Đặc điểm này tác động sâu sắc, thậm chí có tính chất sống còn đối với sự nghiệp đổi mới kinh tế của Việt Nam trên mấy mặt sau đây.

a) Định hướng phát triển cơ sở kỹ thuật và cơ cấu kinh tế thị trường.

Đây là những vấn đề xây dựng tiềm năng phát triển và sức cạnh tranh quốc gia. Nếu cơ sở kỹ thuật là cơ cấu kinh tế lạc hậu thì sẽ hứng chịu nhiều thảm hại. Là nước đang phát triển, chúng ta cần lưu ý xu hướng chuyển từ "giai đoạn công xưởng" lên "giai đoạn hậu công xưởng" của các nước đi trước. Họ sẽ tìm cách, tìm mọi cơ hội chuyển những gì lạc hậu của công xưởng (kinh tế công nghiệp) sang nước ta khi được "trải thảm đỏ" mời nước ngoài đầu tư mà ta kinh tế biết lựa chọn, tạo ra nguy cơ trở thành bãi rác của khu vực và thế giới. Lúc ấy sẽ phát sinh sự tha hoá về mặt xã hội và văn hoá.

b) Do chạy theo lợi nhuận (mà khụng có sự giám sát) nên một số doanh nghiệp nước ta đã nhập ồ ạt mọi sản phẩm của công nghiệp văn hoá các nước, từ đồ chơi rẻ tiền cho đến các sản phẩm văn hoá không còn phù hợp với nền văn hoá mới, tạo ra lối sống không lành mạnh trong xã hội.

Về khách quan, đi đôi với quá trình chuyển đổi từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức là quá trình chuyển đổi nền văn hoá. Sự chuyển đổi về văn hoá hiện là một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng xã hội ở các nước phương Tây, thể hiện ở lối sống tiêu thụ, tiêu xài quá mức thu nhập, tham nhũng. Không phải ngẫu nhiên, Giáo sư P.F. Drucker đã nhận thấy một chiều hướng "Các nước phát triển đang chuyển ra khỏi bất kỳ những gì mà có thể được gọi là chủ nghĩa tư bản".(1)

Cho nên, những sai lầm trong hoạt động văn hoá cũng tiềm ẩn nguy cơ lạc hậu không kém gì những hậu quả về kinh tế.

c) Hiện nay trên thế giới, do sức ép về vấn đề xã hội và môi trường nên buộc phải đổi mới mô hình kinh tế và phương thức quản lý. Do đó, quan hệ kinh tế đối ngoại đang thay đổi mà những nước sớm đổi mới sẽ có lợi, còn nước trì trệ sẽ hứng chịu những thiệt thòi.

Thứ tư, xu hướng chuyển đổi mô hình kinh tế thị trường từ mô hình công nghiệp truyền thống sang mô hình phát triển bền vững, tạo ra sự phát triển đồng thời về xã hội và môi trường tăng trưởng trong kinh tế. Xu hướng này đang là sức ép trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa các nước trên toàn cầu. Nước ta phát triển kinh tế thị trường trong bối cảnh đó. Khuynh hướng chỉ biết chạy theo tỷ lệ tăng trưởng GDP hằng năm, bất chấp các vấn đề xã hội và môi trường đã lỗi thời đang bị phê phán gay gắt vì sự sống còn của nhân dân. Trung Quốc qua 30 năm cải cách mở cửa đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới nhưng đồng thời cũng là nước tàn phá môi trường nhất thế giới. Cuộc khảo sát của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc ở tỉnh Sơn Tây cho biết: Tỉnh này tăng trưởng 9%/năm trong nhiều năm, nhưng thiệt hại về kinh tế lên tới 15%/năm, tính ra GDP thực là -6%. Khuynh hướng tăng trưởng kinh tế nước ta cũng đang nằm trong tình trạng đó.

II - Những vấn đề đặt ra trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam

Căn cứ vào những đặc điểm kinh tế thị trường ở nước ta nói trên trong thời đại kinh tế hiện nay, có thể rút ra những vấn đề quan trọng và cấp bách dưới đây:

1- Đổi mới mô hình kinh tế.

Thời đại hiện nay đã đem lại cơ hội chưa từng có để thực hiện thị trường theo định hướng tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường của Đảng ta. Từ góc nhìn khoa học chính trị, đó là nội hàm của định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là: phải tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế chính trị để hoàn thiện mô hình kinh tế theo hướng phát triển bền vững. Mô hình này tạo ra khả năng thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa với nội hàm phát triển bền vững.

Chuyển đổi mô hình kinh tế ở nước ta đang đặt ra như một bước phát triển từ lượng sang chất cả về kinh tế và chính trị, về xã hội và văn hóa. Vì vậy bước phát triển này lại đặt ra phải giải quyết hai vấn đề then chốt. Đổi mới công tác lý luận tư tưởng và đổi mới công tác tổ chức và cán bộ

2. Xây dựng mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế thị trường và văn hoá

Đây là một vấn đề như chưa được giải quyết trong quá trình đổi mới. Chạy theo tăng trưởng kinh tế, chúng ta đã quên mất mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở kinh tế với thượng tầng kiến trúc của lý luận Mác - Ăng-ghen nên đã tách rời kinh tế với văn hoá, gây ra cản trở lẫn nhau đến mức kìm hãm phát triển văn hoá, đã tạo ra thực trạng đáng buồn cẩn phải giải quyết như:

a) Tệ quan liêu, tham nhũng ngày càng phổ biến. Dự án càng to càng phải có nhiều "phong bì lớn" cho những ai quyết định hay quản lý dự án. Tệ nạn này đã làm méo mó toàn bộ quy hoạch phát triển về kinh tế và văn hoá. Sự lan toả kiểu "quan tham – dân gian" trên mọi lĩnh vực, mọi cấp độ đã làm cho bộ mặt kinh tế và văn hoá mang những nét hoang dã, nhưng đã thành quán tính. Chính tệ nạn này là nguồn gốc của bệnh thành tích chạy theo dự án đầu tư không cần đếm xỉa đến giải quyết vấn đề xã hội và môi trường. Có lẽ vì thế mà số lượng "dự án treo" và sân golf (theo báo chí, có tỉnh cứ cách 10 km lại có một sân golf) ở Việt Nam vào loại nhiều nhất thế giới nếu tính theo dân số.

b) Tình trạng kém phát triển của nền giáo dục Việt Nam. Giáo dục không gắn liền với nhu cầu nhân lực phát triển kinh tế, với xây dựng xã hội "công bằng, dân chủ, văn minh". Hiện tượng “chạy” bằng cấp, chức quyền, những vấn đề phẩm chất, đạo đức trong hệ thống giáo dục có nguồn gốc từ mô hình kinh tế và thể chế quản lý. Xây dựng mối quan hệ cùng phát triển giữa kinh tế với văn hoá cần phải giải quyết đúng chất lượng đào tạo. Kể cả mở loại trường đại học quốc tế. Do những lệch lạc trong định hướng đào tạo nên có người nước ngoài cho rằng "mở trường đại học quốc tế ở Việt Nam là làm giàu nhanh nhất, lại được trọng vọng".

c) Cần định hướng đúng và tăng tốc việc xây dựng nền khoa học và công nghệ quốc gia. Đây là một trong những vấn đề trọng tâm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá. Không phải có nhiều trường đại học, nhiều học vị học hàm là có nền khoa học và công nghệ. Thước đo hiệu quả và trình độ nền khoa học và công nghiệp nước nhà nằm ở khâu chất lượng do định hướng đúng tạo ra. Trong thời đại kinh tế tri thức và toàn cầu hoá kinh tế thì sự phát triển khoa học và công nghệ trên thế giới cũng đang chuyển hướng: từ phục vụ yêu cầu tăng lợi nhuận của chủ đầu tư sang bảo đảm sự phát triển đồng thuận cả về kinh tế - xã hội và môi trường. Nói cách khác, khoa học và công nghệ chuyển từ mục tiêu tăng trưởng của cải sang mục tiêu vì cuộc sống con người và cộng đồng. Nhờ đó, khoa học và công nghệ ngày càng mang bản chất nhân văn. Đây là cơ hội chưa từng có cho định hướng phát triển của Việt Nam. Cơ hội này được bắt đầu từ định hướng nền giáo dục quốc gia, bắt đầu từ đào tạo cán bộ cao cấp.

Chất lượng khoa học và công nghệ bắt nguồn từ xu hướng "khoa học tự nhiên và khoa học xã hội thâm nhập vào nhau (cả về tri thức, phương pháp, cách sử dụng thành tựu khoa học và công nghệ). Theo dự báo của C.Mác xu hướng đó đưa tới sự hình thành một khoa học: "khoa học về con người" mà đến đầu thế kỷ trở thành một xu hướng của thời đại.

3. Sớm hình thành mối quan hệ cùng phát triển giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội

Cho đến nay lịch sử đã đem lại hai mô hình phát triển kinh tế thị trường.

Một là, mô hình chạy theo tăng trưởng của cải với động lực và mục tiêu là giá trị gia tăng, coi thường vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế. Hậu quả của mô hình này là khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng. Hơn 80% của cải làm ra thuộc về một nhóm người giàu có, còn lại là dân nghèo, và cận nghèo. Đây là lịch sử mấy trăm năm của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng xã hội đã xảy ra liên tiếp buộc các nước tư bản chủ nghĩa phải thích nghi với yêu cầu xã hội một phần nào mà không làm thiệt hại đến lợi ích các tập đoàn tư bản. Do sức ép của cạnh tranh và tiến bộ khoa học - công nghệ, nên mô hình này phải điều chỉnh thành mô hình "kinh tế thị trường xã hội".

Hai là, mô hình phát triển bền vững khai thác mối quan hệ càng phát triển giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Mô hình này đang trong giai đoạn quá độ, nhưng càng bộc lộ những tiềm năng to lớn do dựa trên kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức là giai đoạn mới của kinh tế thị trường đem lại khả năng to lớn tạo ra sự phát triển tổng hợp giữa kinh tế với công bằng xã hội, tạo ra định hướng mới của kinh tế thị trường. Sự xuất hiện mô hình phát triển bền vững và sự cáo chung của mô hình tăng trưởng phiến diện đã khẳng định dự báo của Ph. Ăng- ghen vào cuối thế kỷ XIX về sự kết thúc mô hình chạy theo tăng trưởng lấy lợi nhuận làm động lực và mục tiêu.

Trong thực tế, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội không thể tách rời yêu cầu bảo vệ môi trường, nhất là đối với Việt Nam có đặc điểm địa lý chịu tác động sớm và nặng nề của sự biến động môi trường.

4. Vấn đề cấp bách là xây dựng thể chế kinh tế thị trường phát triển bền vững.

Phát triển bền vững là xu hướng của thời đại, là điều kiện khách quan thuận lợi để thực hiện thành công mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Nhưng xem xét từ thực trạng kinh tế, xã hội, môi trường hiện nay thì đây là một vấn đề cấp bách, và là vấn đề đầu tiên đặt ra trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện công bằng xã hội.

Hơn hai thập niên chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đã tạo ra được những tiền đề cho xây dựng thể chế kinh tế mới và cũng đã có những bài học cho cấp vĩ mô trong xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thể chế cần tham khảo. Mong đợi sự khôi phục và quán triệt, vận dụng một giá trị lý luận - thực tiễn mà Đảng đã có. Đó là giá trị lý luận và phương pháp Hồ Chí Minh về phát triển bền vững.

Lý luận đã chỉ rõ: không tách rời vấn đề kinh tế với vấn đề văn hoá, vấn đề xã hội và môi trường, mà phải đồng thời phát triển. Phương pháp mà Hồ Chí Minh thể hiện là phương pháp hệ thống, tức là đặt vấn đề phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường là những “mắt xích” của một hệ thống, và được thể hiện thành thể chế kinh tế. Thể chế kinh tế chỉ thực hiện thành công, theo Hồ Chí Minh: Phải có kế hoạch, phải khéo tổ chức, phải kiên quyết chống tham nhũng.

Giá trị lý luận và phương pháp Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho tiếp tục đổi mới. Cơ hội và thách thức đối với những người lãnh đạo và quản lý là ở đó./.
 
___________________________________________________

(1) P. F. Drurker. Xã hội hậu tư bản, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 1995