Theo thông báo của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Võ Văn Kiệt, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đại biểu Quốc hội các khoá VI, VIII, IX, đã từ trần ngày 11-6, sau một thời gian lâm bệnh nặng, thọ 86 tuổi.

 
Lễ viếng đồng chí Võ Văn Kiệt được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh từ 8 giờ ngày 14-6 đến 8 giờ 30 phút, ngày 15-6. Lễ truy điệu được tổ chức bắt đầu từ 9 giờ ngày 15-6, an táng cùng ngày tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh.
Cùng thời gian tổ chức lễ viếng và lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tổ chức lễ viếng, lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, số 11 Lê Hồng Phong, Hà Nội và tại trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
 

Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vô cùng thương tiếc báo tin:

 

Ðồng chí Võ Văn Kiệt, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX, Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 60 năm tuổi đảng,

 

Sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù được Ðảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, đồng chí đã từ trần hồi 7 giờ 40 phút, ngày 11-6-2008, thọ 86 tuổi.

 

Ðồng chí Võ Văn Kiệt, tên khai sinh là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, sinh ngày 23-11-1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Ðồng chí tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, hoạt động trong phong trào Thanh niên phản đế. Năm 1939, đồng chí vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương, làm Bí thư Chi bộ, Huyện ủy viên và tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vũng Liêm.

 

Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, đồng chí làm Ủy viên Chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí được giao các nhiệm vụ Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu.

 

Từ năm 1955 và trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí làm Xứ ủy viên, Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang, Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Ðịnh), Bí thư Khu ủy Khu 9, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Năm 1976, đồng chí làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rồi làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, đồng chí được điều về Trung ương công tác.

 

Hoạt động cách mạng liên tục trên 70 năm, đồng chí đã có nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc.

 

Ðồng chí mất đi là một tổn thất đối với Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta.

 

Ðể tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn đồng chí Võ Văn Kiệt, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức tang lễ đồng chí Võ Văn Kiệt với nghi thức Quốc tang.

 

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ÐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
 
Tóm tắt tiểu sử đồng chí Võ Văn Kiệt, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng

Ðồng chí Võ Văn Kiệt; tên khai sinh là Phan Văn Hòa; bí danh : Sáu Dân.

Sinh ngày 23-11-1922, tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

Năm 1938, đồng chí tham gia hoạt động trong phong trào Thanh niên phản đế. Tháng 11-1939, đồng chí được kết nạp vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương, làm Bí thư Chi bộ, Huyện ủy viên và tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

Từ năm 1941 đến năm 1945, đồng chí hoạt động cách mạng ở Rạch Giá, tham gia Tỉnh ủy lâm thời và tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở tỉnh Rạch Giá.

Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, đồng chí làm Ủy viên Chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ.

Năm 1950, đồng chí được điều về tỉnh Bạc Liêu làm Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu.

Năm 1955, đồng chí được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang.

Năm 1959, đồng chí được điều về Khu Sài Gòn - Gia Ðịnh làm Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Ðịnh) cho đến cuối năm 1970.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Ðảng (năm 1960), đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng. Là Ủy viên Trung ương Cục miền Nam, đồng chí tiếp tục làm Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Ðịnh), rồi Bí thư Khu ủy Khu 9 (Khu Tây Nam Bộ).

Năm 1972, đồng chí được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa III.

Từ năm 1973 đến 1975 đồng chí được điều về công tác ở Trung ương Cục và là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Trong thời gian chuẩn bị giải phóng Sài Gòn, đồng chí được Trung ương Cục phân công làm Bí thư Ðảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn.

Năm 1976 đồng chí làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ðồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VI.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Ðảng (năm 1976), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị và được phân công làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Ðảng (tháng 3-1982), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Ðảng (tháng 12-1986), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tháng 2-1987, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VIII và được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Phó Chủ tịch Thường trực rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Ðảng (tháng 6-1991), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII, đồng chí được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; sau đó, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII (tháng 8-1991), đồng chí được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Ðảng (tháng 6-1996), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị và được cử làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị.

Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX (1992 - 1997), đồng chí được Quốc hội bầu làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

Từ tháng 12-1997 đến tháng 4-2001, đồng chí được Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa VIII cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam.

Ðồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX.

Do có công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc, đồng chí đã được Ðảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, nhiều huân chương, huy chương cao quý khác và Huy hiệu 60 năm tuổi DDảng.