Cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương

Bùi Đức Khánh Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
21:10, ngày 07-09-2018

TCCS - Trong những năm gần đây, châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển năng động, có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế, an ninh quan trọng hàng đầu thế giới. Chính vì vậy, sự cạnh tranh, điều chỉnh chiến lược, gia tăng sự tập hợp lực lượng giữa các nước lớn, nhất là Trung Quốc và Mỹ tại khu vực khiến hình thái cạnh tranh, hợp tác giữa các nước này ngày càng quyết liệt hơn.

Kể từ sau Đại hội XVIII (năm 2012) và Đại hội XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2017) và nhất là sau khi Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm lên cầm quyền (năm 2017), mối quan hệ Trung Quốc - Mỹ có nhiều thay đổi đáng quan tâm. Về mặt chiến lược, hai nước đều có lợi ích duy trì trật tự hiện hành. Mỹ công nhận vị trí nước lớn của Trung Quốc và để ngỏ “dư địa” cho nước này đóng vai trò lớn hơn trong trật tự do Mỹ đứng đầu. Trung Quốc chưa đủ sức xây dựng trật tự mới và vẫn tiếp tục thu nhiều lợi ích khi tham gia hội nhập quốc tế. Hai nước cũng có chung lợi ích là tránh đối đầu, kiềm chế căng thẳng. Chính phủ Mỹ tuy không hưởng ứng “mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới” nhưng nhất trí với Trung Quốc về mục tiêu của quan hệ Trung - Mỹ là không đi đến đối đầu. Trong những tuyên bố công khai, Mỹ và Trung Quốc đều nêu yêu cầu tránh không trở thành “đối thủ chiến lược một cách không cần thiết” và thực hiện cả hai “cùng thắng”. Mỹ cũng không cản trở đồng minh và đối tác của mình phát triển quan hệ với Trung Quốc và nước này cần Trung Quốc như một đối tác không thể thiếu cho sự phát triển, cùng sự hỗ trợ của cường quốc này để giải quyết các vấn đề toàn cầu cũng như khu vực. Quan hệ Trung Quốc - Mỹ thể hiện đầy đủ và điển hình mối quan hệ giữa các nước lớn trong giai đoạn hiện nay.

Cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Mỹ tại khu vực hiện nay

Trong giai đoạn hiện nay, cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực, tập trung trên một số nội dung chính sau:

Thứ nhất, cạnh tranh về quyền lực. Đó là cạnh tranh giữa một siêu cường đang tại vị (Mỹ) với một cường quốc đang lên (Trung Quốc) có nguy cơ làm thay đổi cấu trúc quyền lực tại khu vực mà Mỹ đang chiếm ưu thế. Mặc dù về công khai, cả hai bên đều không muốn điều này xảy ra, nhưng trên thực tế, lo ngại xung đột quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc ngày một hiện hữu. Dễ nhận thấy nhất là, trong Chiến lược An ninh quốc gia mà Tổng thống Đ. Trăm công bố cuối năm 2017, đã nêu đích danh Trung Quốc (cùng với Nga) là hai quốc gia “xét lại” đang mong muốn thay đổi trật tự thế giới và vị trí số một của nước Mỹ. Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Mỹ luôn để ý ai sẽ thách thức vị trí số một của mình, dù là quân sự, kinh tế hay ảnh hưởng quốc tế. Do đó, việc Tổng thống Đ. Trăm sau hơn một năm cầm quyền với mục tiêu làm cho nước Mỹ “vĩ đại trở lại” đã liên tục ban hành và điều chỉnh hàng loạt chính sách nhằm củng cố và tìm lại vị trí hàng đầu cho nước này.

Thứ hai, cạnh tranh vị thế địa - chính trị. Với việc nhấn mạnh khái niệm “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” thay cho “châu Á - Thái Bình Dương” trong công bố của Tổng thống Mỹ Đ. Trăm tại Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 2017 đã hé lộ phần nào chính sách đối ngoại của Mỹ đối với châu Á theo hướng “cân bằng cứng”. Mặt khác, điều đó còn thể hiện cam kết về sự hiện diện của Mỹ - cả trên bình diện ngoại giao và quân sự ở khu vực - đồng thời làm rõ tầm quan trọng của một đồng minh như Ấn Độ. Trong không gian Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, 4 nước gồm Nhật Bản, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a và Mỹ có ý tưởng phối hợp trên các lĩnh vực có liên quan, như tập trận chung, hợp tác an ninh, xây dựng cấu trúc an ninh khu vực lấy Nhật Bản là điểm tựa ở phía Đông, Ấn Độ ở phía Tây, Ô-xtrây-li-a ở phía Nam, do Mỹ giữ vai trò chủ đạo.

Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với an ninh và thương mại thế giới trong thế kỷ XXI bởi nhiều lý do, trong đó đặc biệt là kinh tế, quân sự và chính trị quốc tế. Tuyến đường biển từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương đóng vai trò quan trọng cho dòng chảy dầu mỏ, khí đốt và hàng hóa trên thế giới. Đây cũng là nơi có hai eo biển quan trọng nhất với tuyến vận chuyển dầu mỏ từ Trung Đông tới Ô-xtrây-li-a và Đông Á. Trung bình mỗi ngày có 17 triệu thùng dầu mỏ được vận chuyển qua eo biển Ho-mút và 15,2 triệu thùng qua eo biển Ma-lắc-ca. Mặt khác, đây cũng là vùng biển nổi tiếng thiếu ổn định với nạn cướp biển và khủng bố. Trong khi đó, năng lực hàng hải của các nước trong khu vực vẫn còn hạn chế. Chính vì vậy, việc bảo đảm an ninh cho tuyến huyết mạch của kinh tế thế giới được Mỹ và các nước đặc biệt quan tâm.

Bên cạnh các yếu tố về chống cướp biển, khủng bố, hỗ trợ cứu hộ cứu nạn, còn một nguyên nhân không kém phần quan trọng dẫn tới sự ra đời của chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, đó là kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Năm 2014, Trung Quốc công bố sáng kiến “Vành đai, Con đường”, bắt nguồn từ ý tưởng xây dựng “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa trên bộ”(SREB) và “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”(MSR) (gọi tắt là “Vành đai, Con đường” (BRI). Sáng kiến này do Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đề xướng, được coi là một kế hoạch dài hơi để ứng phó với chiến lược “xoay trục” và chính sách “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”của Mỹ. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” ra đời đã đẩy cạnh tranh Trung Quốc - Mỹ lên một nấc thang mới và nếu viễn cảnh này trở thành hiện thực thì sẽ là một bước chuyển tiếp mềm cho quá trình chuyển giao quyền lực để sắp xếp lại bàn cờ chính trị thế giới. Để triển khai sáng kiến này, thời gian qua Trung Quốc đã đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đường bộ, đường sắt, đường biển ở các nước Trung Á, Nam Á và châu Phi để mở rộng ảnh hưởng của mình.

Từ cuối năm 2013 trong khuôn khổ của sáng kiến “Vành đai, Con đường”, Trung Quốc đề xướng thành lập Ngân hàng Đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB). AIIB được coi là một định chế tài chính, mang tính cạnh tranh với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB), trong lĩnh vực hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng cho các quốc gia châu Á. Bất chấp sự quay lưng và phản ứng trái chiều của Mỹ, các nước cơ bản đều ủng hộ và tích cực tham gia AIIB do sức quyến rũ về lợi ích mà Ngân hàng này đem lại. Trong bối cảnh ADB và WB không có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng của các quốc gia trong khu vực, thì sự ra đời của AIIB như một nút gỡ, một điểm tựa đáng kể. Thắng lợi ban đầu của AIIB là với 57 thành viên tham gia, đã khiến thái độ của Mỹ trở nên mềm mỏng hơn, cho dù Mỹ vẫn không ngừng tỏ ra nghi ngại về tính chuyên nghiệp và độ minh bạch của AIIB. Mỹ và phương Tây cũng không ngừng chỉ trích việc triển khai BRI của Trung Quốc là thiếu minh bạch, chất lượng thấp, xâm phạm lãnh thổ và làm nhiều nước nghèo ngập trong nợ nần. Tuy nhiên, sự tham gia BRI ở mức độ khác nhau của nhiều nước trong khu vực vào sáng kiến này cho thấy sức ảnh hưởng ngày một gia tăng của Trung Quốc. Đây là điều quan trọng nhất khiến phía Mỹ lo ngại.

Không những tăng cường mở rộng ảnh hưởng kinh tế, Trung Quốc còn tăng cường hiện diện quân sự ở Ấn Độ Dương với căn cứ quân sự hải ngoại đầu tiên ở Di-bu-ti phía Đông châu Phi và đang xúc tiến mở thêm các căn cứ không quân, hải quân khác. Trước nguy cơ lợi ích địa - chính trị, kinh tế và các lợi ích của mình trong khu vực có thể sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, Mỹ đã tập hợp các cường quốc có liên quan trong chính sách Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương để làm đối trọng với Trung Quốc. Một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở đã thể hiện rõ tầm nhìn đó.

Như vậy, sáng kiến “Vành đai, Con đường” do Trung Quốc thúc đẩy và chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” của Mỹ sẽ là hình thái mới của sự cạnh tranh chiến lược giữa hai nước. Cuộc đọ sức chiến lược trên biển - đất liền truyền thống sẽ diễn ra ở ngã tư con đường: châu Á - châu Đại Dương - Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong thời gian tới.

Thứ ba, cạnh tranh trong kinh tế - thương mại. Trong suốt quá trình phát triển, nước Mỹ đều dựa rất lớn vào thương mại tự do và Mỹ cũng luôn tự coi mình là quốc gia đi đầu trong tự do thương mại quốc tế. Nhưng cũng chính họ, khi cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm, hoặc khi rơi vào thế chịu thiệt, lại sử dụng những biện pháp bảo hộ và thậm chí là gây chiến thương mại. Ngay từ đầu năm 2018, những động thái cạnh tranh trên lĩnh vực thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã tăng nhanh và làm nóng bầu không khí quan hệ giữa hai nước vốn đang tốt đẹp hồi cuối năm 2017. Mỹ đẩy nhanh các cuộc điều tra thương mại thường kỳ, như chống trợ cấp, chống bán phá giá và áp đặt mức thuế mới đối với 1.300 mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc có giá trị 60 tỷ USD. Tổng thống Mỹ Đ. Trăm còn viết trên trang cá nhân Twitter của mình “Các cuộc chiến thương mại là tốt, và dễ thắng”, sau khi ký một văn bản được coi là khơi mào tranh chấp thương mại của Chính phủ Mỹ với mức thuế 25% đối với thép và 10% đối với nhôm nhập khẩu vào đầu tháng 3-2018. Giới phân tích cho rằng, nếu cuộc chiến thương mại leo thang, bên tổn thất lớn hơn có thể là Trung Quốc. Trước hết, xuất khẩu hàng hóa từ Mỹ sang Trung Quốc chỉ chiếm chưa đầy 1% GDP và 8% tổng xuất khẩu của Mỹ. Trong khi đó, xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ chiếm gần 4% GDP và 20% tổng xuất khẩu của quốc gia này. Giá trị gia tăng từ xuất khẩu sang Mỹ chiếm 3% GDP của Trung Quốc(1). Mặc dù nhiều công ty Mỹ đang đầu tư ở Trung Quốc, nhưng nếu các căng thẳng thương mại không được giải quyết, Trung Quốc sẽ chịu tác động kinh tế trực tiếp lớn hơn Mỹ.

Còn tổn thất thực sự của Mỹ là gì? Khi Trung Quốc có thêm các biện pháp trả đũa, người tiêu dùng Mỹ có thể trở thành đối tượng chịu thiệt thòi đầu tiên do giá cả các hàng hóa nhập khẩu tăng lên. Tiếp theo, việc Trung Quốc gây khó dễ cho những công ty lớn, như Apple, Boeing, Intel... trên thị trường Trung Quốc sẽ là áp lực lớn đối với Mỹ. Các số liệu cho thấy, trong quý IV-2017, doanh thu của Apple từ Trung Quốc là 18 tỷ USD, chiếm tới 20% doanh thu của hãng. Hãng Boeing trong năm 2017 cũng xuất khẩu sang Trung Quốc 12 tỷ USD, chiếm 13% tổng doanh thu. Không chỉ các hãng công nghệ, các công ty hàng tiêu dùng lớn của Mỹ cũng có thể chịu tác động tiêu cực. Quý IV-2017, doanh thu của Nike từ thị trường Trung Quốc là 1,2 tỷ USD, chiếm 15% doanh thu của công ty. Liên doanh với Trung Quốc của công ty ô-tô GM năm ngoái tiêu thụ được 400.000 chiếc - mức cao kỷ lục. Trong khi đó, các khách hàng Trung Quốc đem lại cho Starbucks 14% doanh thu mỗi năm(2).

Hiện nay, kinh tế Trung Quốc và Mỹ vẫn còn nhiều điều cần phải bổ khuyết. Xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ phần lớn là hàng hóa tiêu dùng, trong khi xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc chủ yếu là vốn và công nghệ. Không dễ dàng cho Trung Quốc và Mỹ để chiến thắng bằng một cuộc chiến tranh thương mại mà không làm tổn thương đến lợi ích quốc gia và cũng không thực tế khi tin rằng sự mất cân bằng thương mại song phương có thể bị loại trừ bằng một cuộc chiến tranh thương mại. Trên thực tế, những mâu thuẫn căn bản tiềm tàng giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ tiếp tục diễn ra và ngày càng nổi trội. Thặng dư thương mại của Trung Quốc và Mỹ không chỉ tồn tại trong thị trường sản phẩm cần nhiều lao động, mà còn cả về thị trường sản phẩm có vốn và công nghệ cao. Với sự khởi đầu của một cuộc chạy đua công nghệ cao, sự va chạm thương mại trong các ngành công nghiệp cần vốn và công nghệ cao sẽ trở nên phổ biến.

Sự leo thang trong cạnh tranh thương mại Trung Quốc - Mỹ sẽ làm cho hợp tác giữa hai cường quốc này ở vào tình trạng khó khăn chưa từng có. Kinh tế và quan hệ thương mại Trung Quốc - Mỹ đang bước vào một giai đoạn mới và sẽ phát triển theo hướng cạnh tranh ngày càng nhiều. Điều nguy hiểm hơn là việc “trả đũa” về kinh tế giữa hai nước nếu cứ tiếp diễn sẽ kéo toàn bộ hệ thống thương mại của thế giới đi xuống, trong khi nền kinh tế toàn cầu hiện nay vốn đã không khỏe mạnh.

Những tác động tới Việt Nam và một vài gợi ý chính sách

Trước tình hình thế giới và khu vực đầy biến động, với tầm nhìn chiến lược, Đại hội XII của Đảng đưa ra dự báo: “Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh đấu tranh kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực… Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh đấu tranh giữa các nước trên thế giới và khu vực vì lợi ích của từng quốc gia tiếp tục diễn biến rất phức tạp”(3).

Điều chỉnh cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc đang và sẽ làm thay đổi các mối quan hệ trên thế giới. Điều này tác động không nhỏ đến các nước vừa và nhỏ. Đánh giá đúng mối quan hệ cùng sự cạnh tranh chiến lược giữa hai cường quốc này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nước nhỏ, trong đó có Việt Nam, nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro, củng cố và tăng cường tốt nhất các lợi ích cho mình ở khu vực và thế giới.

Thứ nhất, thực hiện cân bằng về lợi ích trong quan hệ với các nước lớn là nguyên tắc, là một trong những tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Việt Nam, nhưng chúng ta cũng cần đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng cường quốc trong những giai đoạn khác nhau để tìm ra giải pháp tối ưu. Cần tạo ra nhiều sự hợp tác, đan xen, ràng buộc lợi ích với các cường quốc này để bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, đồng thời tránh trở thành “con bài” để các nước lớn mặc cả lợi ích với nhau. Tích cực, chủ động tìm lợi ích chung để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, thân thiện từ các nước lớn này.

Thứ hai, tiếp tục chú trọng duy trì đường lối đối ngoại đa phương hiện nay. Tích cực thúc đẩy quá trình hội nhập, xây dựng và phát huy vai trò Cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) hơn nữa. Tuy ASEAN hiện nay là một cơ chế tốt để Việt Nam tranh thủ sự ủng hộ ngoại giao từ các nước khác và nâng cao vị thế của mình, nhưng cần nhìn nhận một cách thực tế rằng, cách thức ASEAN vận hành còn có những bất cập và tổ chức này hoàn toàn có thể vận hành một cách hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, trong đối ngoại, Việt Nam cũng cần tránh rơi vào tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào bất kỳ một quốc gia nào trong bảo vệ an ninh - quốc phòng của mình, bởi chính sách của các nước luôn biến động theo thời gian. Sẽ rất rủi ro nếu chúng ta “đặt cược” hoàn toàn vào một đối tác. Do đó, con đường tối ưu đối với Việt Nam vẫn sẽ là thúc đẩy quan hệ với Mỹ và Trung Quốc đồng thời chủ động hợp tác với tất cả các đối tác tiềm năng khác trong và ngoài khu vực để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Để làm tốt giải pháp này, Việt Nam cần tích cực, chủ động thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã thỏa thuận; nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Thứ ba, Việt Nam có một vị trí địa - chính trị rất quan trọng trong cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Mỹ tại khu vực, cần được nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác những tác động và hoạch định đối sách phù hợp.

Việt Nam và Đông Nam Á nằm ở trung tâm, ngã ba đường của hai đại dương lớn: Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nên chính sách mới của Mỹ và Trung Quốc về châu Á bao hàm sự ghi nhận tầm quan trọng của Việt Nam cùng khu vực Đông Nam Á. Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi và thách thức không nhỏ. Về thuận lợi, đó là khả năng hợp tác giữa chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm với Việt Nam theo tinh thần hợp tác cùng có lợi là rất lớn. Triển vọng hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng với Mỹ sẽ tiếp tục phát triển, thậm chí Việt Nam có thể sẽ là một “tiêu điểm” trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực, đặc biệt là trong các chính sách của Mỹ ở Biển Đông. Về khó khăn, trong quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ, Việt Nam trong những năm qua đã xuất khẩu nhiều qua Mỹ (xuất siêu lớn), vì vậy Việt Nam cũng phải chuẩn bị trước khả năng Mỹ sẽ áp đặt các chính sách bảo hộ, đặt ra các rào cản thương mại đối với Việt Nam để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng Mỹ.

Thứ tư, tiếp tục thực hiện chính sách nhất quán hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, nhất là về kinh tế, tôn trọng và ổn định về chính trị và hợp tác về an ninh, đôi bên cùng có lợi.

Rủi ro thực sự của các cuộc chiến thương mại là thương mại thế giới hiện nay được tổ chức theo các chuỗi sản xuất tạo ra tác động lan tỏa chứ không chỉ dừng lại ở phạm vi một nhóm nước. Hơn thế, cạnh tranh giữa hai cường quốc sẽ tạo ra tiền lệ trong bối cảnh kinh tế các nước đều có xu hướng quay về chủ nghĩa bảo hộ và đề cao chủ nghĩa dân tộc. Sự đảo lộn của môi trường thương mại toàn cầu sẽ tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các quốc gia. Trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc hiện nay, Việt Nam được xếp chung vào một nhóm các nước có thặng dư thương mại với Mỹ nên sẽ gặp phải nhiều khó khăn hơn trong việc cải thiện quy mô và chất lượng xuất khẩu của mình. Điều này càng đặc biệt đáng lo ngại khi Mỹ đang là thị trường xuất khẩu số một của chúng ta. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện chính sách nhất quán hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, nhất là về kinh tế, tôn trọng và ổn định về chính trị và hợp tác về an ninh, đôi bên cùng có lợi. Việc tăng cường và thúc đẩy quan hệ với Mỹ lên tầm cao mới sẽ tạo ra nội lực kinh tế phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời chúng ta cần theo dõi sát sao chiều hướng và sự triển khai chính sách Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ để có thể đánh giá đầy đủ về những thay đổi và tác động của những thay đổi này, từ đó có những đối sách kịp thời, phù hợp./.

---------------------------------------------

(1) Phạm Sỹ Thành: “Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung: Ai mất gì và tại sao?” http://www.thesaigontimes.vn/270690/Cuoc-chien-thuong-mai-My---Trung-Ai-mat-gi-va-tai-sao.html, ngày 2-4-2018
(2) http://www.thesaigontimes.vn/270690/Cuoc-chien-thuong-mai-My---Trung-Ai-mat-gi-va-tai-sao.html: Tài liệu đã dẫn
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 70 - 71