Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất

Diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 tại phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự có 13 đại biểu chính thức thay mặt cho 500 đảng viên trong nước và các đảng bộ ở nước ngoài.

Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu trước mắt: củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc.

Ban Chấp hành Trung ương gồm 9 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đại biểu của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.

Các Tổng Bí thư của Đảng thời kỳ này: Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II

Diễn ra từ ngày 11 đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 766.349 đảng viên đang sinh hoạt trong Đảng bộ toàn Đông Dương. Đây là Đại hội Đảng được tổ chức lần đầu tiên ở trong nước.
Do sự phát triển và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, Đại hội quyết định xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản riêng. Ở Việt Nam, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết và Ban Bí thư. Đại hội đã bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội đánh dấu sự trưởng thành của Đảng ta về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III

Diễn ra từ ngày 5 đến 10-9-1960 tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Nhiều đoàn đại biểu quốc tế đến tham dự Đại hội.

Ban Chấp hành Trung ương gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng, nêu lên những bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã phân tích kỹ những đặc điểm của cách mạng Việt Nam và quyết định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đường lối cách mạng miền Nam nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Những vấn đề Đại hội thảo luận và quyết định là những vấn đề có quan hệ sống còn đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn bế mạc Đại hội. Người nói: "Đại hội lần thứ II đã đưa kháng chiến đến thắng lợi. Chắc chắn rằng, Đại hội lần thứ III này sẽ là nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà".

Đại hội III của Đảng có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do Đại hội vạch ra là ngọn đèn chiếu rọi con đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội, tiến tới thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV

Diễn ra từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trong cả nước và 29 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.

Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới -kỷ nguyên hoà bình, độc lập, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã thực hiện trọn vẹn lời tiên đoán, điều mong mỏi thiết tha, lời căn dặn thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn... Tổ quốc ta nhất định thống nhất. Đồng bào Nam-Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.

Đây là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, là Đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đã tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nêu lên những bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đại hội đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá xã hội trên phạm vi cả nước; xác định phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Đồng thời, Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua điều lệ mới của Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV- Đại hội đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước đã quyết định những vấn đề quan trọng, mở ra sự phát triển toàn diện của đất nước trên con đường xã hội chủ nghĩa.

Đại hội lần thứ IV của Đảng là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V

Diễn ra từ ngày 27 đến 31-3-1982 tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở trong cả nước và 47 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm có 13 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ban Bí thư gồm 10 đồng chí. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Đại hội đã kiểm điểm đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, khẳng định thành công rực rỡ của Đảng và nhân dân ta là đã nhanh chóng thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, thắng lợi của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và những thành tựu quan trong về kinh tế - xã hội trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước trước điều kiện vô cùng khó khăn, nhiều trở ngại, thách thức. Đại hội tiếp tục khẳng định và bày tỏ niềm tin, quyết tâm thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng xác định những mục tiêu và nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 1981-1985, tiếp tục quá trình tìm tòi, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế-xã hội.

Khi đồng chí Lê Duẩn từ trần, ngày 14-7-1986, Ban chấp hành Trung ương đã họp phiên đặc biệt bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng ta trong việc thực hiện vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, trong điều kiện cụ thể ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI

Diễn ra từ ngày 15 đến 18-12-1986 tại Hà Nội với chủ đề: “Đổi mới toàn diện đất nước vì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội”. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên của cả nước và 32 đoàn đại biểu của đảng và tổ chức quốc tế.

Ban Chấp hành Trung ương gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết. Ban Bí thư gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ là cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội nhất trí cách đặt vấn đề của Ban Chấp hành Trung ương là: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, đánh giá thỏa đáng thành công cũng như khuyết điểm sai lầm, thực tế của đất nước và sự lãnh đạo của Đảng. Từ thực tiễn những năm qua, Đại hội rút ra 4 bài học kinh nghiệm. Đại hội xác định 5 mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại; 6 yêu cầu để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm với nhiệm vụ. Đại hội cũng giao cho Ban Chấp hành Trung ương khóa VI chỉ đạo thực hiện thành công 10 nhiệm vụ cụ thể.

Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu lần VI của Đảng cũng đã vạch ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước:

- Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

- Thực hiện chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Vận dụng quan điểm của Lê-nin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.

- Đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, với những hình thức và bước đi thích hợp, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất…

- Qua phân tích những tác hại của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trong nhiều năm qua đã không cải tạo được động lực phát triển. Vạch ra cơ chế quản lý kính tế là xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế.

- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước cho phù hợp với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và cơ chế quản lý mới. Xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội.

- Chăm lo đời sống của nhân dân, lợi ích kinh tế của người lao động, phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện có nề nếp khẩu hiệu “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”, tất cả vì nhân dân và do nhân dân.

Đại hội VI của Đảng là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết để tiến lên.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII

Diễn ra từ ngày 24 đến 27-6-1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho trên hai triệu đảng viên cả nước.

Đại hội đã bầu 146 đồng chí vào Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trọng trách Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đại hội đã tổng kết 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, nêu lên những bài học sâu sắc, quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đặc biệt Đại hội đã thảo luận và thông qua Cương lĩnh Chính trị xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000. Đại hội và Cương lĩnh Chính trị đã nêu rõ quan niệm về chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với 6 đặc trưng, những phương hướng cơ bản để xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội khẳng định chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, khẳng định quyết tâm và thể hiện niềm tin vào sự nghiệp đổi mới. Với tinh thần trách nhiệm cao, vì sự vững mạnh của Đảng, Đại hội đã thảo luận và xác định những nội dung, biện pháp xây dựng Đảng, thông qua Điều lệ Đảng sửa đổi.

Đặt trong bối cảnh lịch sử những năm 1989-1991, khi chế độ xã hội chủ nghĩa lần lượt sụp đổ ở các nước Đông Âu và Liên Xô, càng thấy rõ ý nghĩa vô cùng quan trọng của Đại hội VII. Đại hội không chỉ giữ vững con đường đi lên xã hội chủ nghĩa do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng nhân dân ta đã sáng suốt lựa chọn, mà còn phát triển nhận thức lý luận và hành động thực tiễn trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới.

Đại hội VII của Đảng được đánh giá là "Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết".

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII

Diễn ra từ ngày 28 - 6 đến 1-7-1996 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đại biểu thay mặt cho 2.130.000 đảng viên trong cả nước và còn có 41 đoàn đại biểu quốc tế.

Ban Chấp hành Trung ương gồm 170 ủy viên, Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên, đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư Đảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công tiếp tục làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội diễn ra trong bối cảnh đất nước có nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

Đồng chí Đỗ Mười - Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị với tiêu đề: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tổng kết chặng đường mười năm đổi mới, Đại hội rút ra sáu bài học chủ yếu. Đại hội cũng đã thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung và sửa đổi.

* Từ ngày 22 đến 29-01-1997 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương họp, đã tiếp tục cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội VIII; đồng thời xem xét và quyết định nhân sự cấp cao của Đảng. Hội nghị đánh giá cao công lao của các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công và chấp thuận đề nghị rút tên khỏi danh sách Bộ Chính trị của các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt và suy tôn ba đồng chí làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng cho đến tháng 04-2001.

Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

Diễn ra từ ngày 19 đến 22-4-2001 tại Hà Nội với chủ đề: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Dự đại hội có 1.168 đại biểu thay mặt cho 2.479.719 đảng viên trong cả nước và 35 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 150 ủy viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội hoạch định mục tiêu chiến lược, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn 10 năm đầu thế kỷ 21 (2001 - 2010) và kế hoạch 5 năm (2001 - 2005) trên cơ sở phân tích, đúc kết những bài học bổ ích của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, nhất là 15 năm đổi mới. Trên cơ sở khẳng định thành tựu và chỉ rõ thiếu sót, khuyết điểm.

Đại hội nhất trí cao mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại… Phấn đấu đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000.

Về giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005, Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công nhân đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường. Tăng cường hiệu lực hoàn thiện hệ thống pháp luật. Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Tiếp tục đổi mới chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh.

Đại hội xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.

Đại hội lần thứ IX của Đảng là Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc trong thời điểm lịch sử trọng đại bước vào thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X

Diễn ra từ ngày 18 đến 25-4-2006 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho 3,1 triệu đảng viên trong cả nước.

Ban Chấp hành Trung ương khóa X gồm 160 ủy viên chính thức và 21 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị có 14 đồng chí, Ban Bí thư có 8 đồng chí, Ủy viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, mở ra giai đoạn phát triển mạnh và đi vào chiều sâu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội, từ 11 đến 19-1-2011, với sự tham dự của gần 1.400 đại biểu được triệu tập, đại diện cho hơn 3,6 triệu đảng viên của Đảng.

Chủ đề chính thức của Đại hội XI là “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”

Trong 9 ngày, Đại hội sẽ thảo luận và thông qua: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X); Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).

Đại hội sẽ bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (nhiệm kỳ 2011-2015). Đại hội sẽ bầu những đại biểu ưu tú trong Đảng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có uy tín trong Đảng, trong xã hội, có tư duy đổi mới, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý vấn đề mới và vấn đề phức tạp nảy sinh, có khả năng đoàn kết, quy tụ, có phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm./.