Thực hiện Chương trình Kỳ họp thứ 3, ngày 05-6, Quốc hội dành cả ngày để thảo luận ở hội trường "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2016".

Đây là một trong những nội dung quan trọng của kỳ họp, được phát thanh và truyền hình trực tiếp để cử tri và nhân dân cả nước theo dõi.

Pháp luật về an toàn thực phẩm được ban hành tương đối đầy đủ

Điều hành phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nêu rõ an toàn thực phẩm luôn là vấn đề quan trọng được nhân dân và cử tri đặc biệt quan tâm, việc ban hành các chính sách pháp luật về an toàn thực phẩm và triển khai thực hiện trong thời gian qua còn có những vấn đề nổi lên, vì vậy Quốc hội đã lựa chọn nội dung giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2016 để tiến hành giám sát tối cao tại Kỳ họp thứ 3.

Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, đây là chuyên đề giám sát rất lớn, quan trọng của Quốc hội. Thực hiện Nghị quyết số 19/2016/QH14 ngày 28-7-2016 về thành lập Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2016”, Đoàn giám sát đã tổ chức giám sát tại các địa phương và làm việc, xem xét các báo cáo của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan. Đoàn giám sát đã hoàn thành kế hoạch giám sát, có báo cáo trình Quốc hội xem xét.

Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2016.

Báo cáo nêu rõ văn bản chính sách pháp luật về an toàn thực phẩm thời gian qua đã được ban hành tương đối đầy đủ, kịp thời; từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Cụ thể, giai đoạn từ 2011-2016, đã có 158 văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Trung ương ban hành; 669 văn bản các địa phương đã ban hành về an toàn thực phẩm.

Nội dung các văn bản pháp luật ban hành về cơ bản đã thể chế hóa được các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về an toàn thực phẩm; nội luật hóa các điều ước, hiệp định quốc tế mà Việt Nam ký kết tham gia… Các nội dung giao Chính phủ, giao Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quy định trong Luật an toàn thực phẩm đến nay đều đã được cụ thể hóa trong các nghị định, thông tư; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thực phẩm đã được quan tâm ban hành phục vụ yêu cầu quản lý an toàn thực phẩm.

Một số tồn tại hạn chế trong công tác ban hành văn bản ở lĩnh vực này đã được Báo cáo chỉ ra, đó là: việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm còn chậm, chưa được hệ thống hóa gây ảnh hưởng tới việc thực thi Luật; một số quy định chưa phù hợp với quản lý an toàn thực phẩm, tính khả thi chưa cao. Một số quy định về phân công trách nhiệm quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm còn chồng chéo, chưa rõ ràng, một số lĩnh vực quản lý thiếu quy định hướng dẫn cụ thể. Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phục vụ quản lý thực phẩm còn thiếu so với yêu cầu.

Phát hiện 678.755 cơ sở vi phạm

Đánh giá về thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm, Báo cáo nhận định việc chỉ đạo điều hành của Chính phủ, các bộ, Ủy ban Nhân dân các cấp về an toàn thực phẩm được tăng cường, tạo chuyển biến tích cực trong hoạt động quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Hệ thống tổ chức quản lý, nhân lực, điều kiện làm việc của các cơ quan quản lý an toàn thực phẩm từng bước được kiện toàn... Công tác quản lý an toàn thực phẩm trong sản xuất rau, quả tươi sống, chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm có nhiều tiến bộ, bước đầu đã có mô hình sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo chuỗi.

Quản lý an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm đã có nhiều chuyển biến tích cực. Số lượng thực phẩm xuất khẩu, nhập khẩu tăng, thị trường được mở rộng. Do kiểm soát tốt chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm nên nông sản, thực phẩm Việt Nam đã có mặt trên 160 nước, trong đó có các thị trường khó tính như: Mỹ, Nhật, Canada, Hàn Quốc… Số lượng cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất kinh doanh thực phẩm chiếm 61% (tăng gấp 6 lần so với giai đoạn 2006-2008). Công tác thông tin, giáo dục truyền thông, phổ biến chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm đã được tăng cường, hoạt động có hiệu quả; hoạt động thông tin, quảng cáo thực phẩm đã được triển khai thực hiện tương đối nghiêm túc.

Đoàn giám sát đánh giá việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm đã được triển khai tương đối đồng bộ và quyết liệt, nghiêm minh hơn trước. Từ năm 2011-2016: cả nước đã thành lập 153.493 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành với sự tham gia của các ngành chức năng, tiến hành kiểm tra tại 3.350.035 cơ sở, phát hiện 678.755 cơ sở vi phạm. Tỷ lệ cơ sở bị phạt tiền (trước đây chỉ là cảnh cáo) tăng từ 30,0% năm 2011 lên 67,1% trong năm 2016; số tiền phạt trung bình 1 cơ sở tăng từ 1,35 triệu (2011) lên 3,73 triệu (2016).

Kinh phí cho công tác quản lý an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu

Những tồn tại trong công tác thực hiện được Đoàn giám sát chỉ ra là: công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, cơ chế phối hợp quản lý an toàn thực phẩm của Chính phủ, các bộ, ngành, Ủy ban Nhân dân các cấp chưa được thường xuyên; nguồn lực, điều kiện làm việc, trang thiết bị cho an toàn thực phẩm còn hạn chế. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm chưa tương xứng với nhiệm vụ...

Báo cáo của Đoàn giám sát nêu: đầu tư kinh phí cho công tác quản lý an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu. Theo báo cáo của Chính phủ, tổng ngân sách Nhà nước đầu tư cho công tác này giai đoạn 2011-2016 là: 2.545,79 tỷ đồng. Tuy nhiên, tỷ lệ thực hiện còn thấp do bị cắt giảm (năm 2016 ngân sách Trung ương giảm 56%) và cấp chậm. Ước tính trung bình từ ngân sách Nhà nước đầu tư cho mỗi tỉnh, thành phố giai đoạn 2011-2016 là khoảng 14 tỷ đồng, mỗi năm trung bình khoảng 2,5 tỷ đồng.

Trong công tác kiểm soát ngộ độc thực phẩm, các bệnh truyền qua thực phẩm còn không ít tồn tại, yếu kém. Tình hình ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm diễn ra khá nghiêm trọng ở một số địa phương. Trung bình có 167,8 vụ/năm với 5065,8 người mắc/năm và 27,3 người chết do ngộ độc thực phẩm/năm. Giai đoạn 2011-2016, đã ghi nhận bảy bệnh truyền qua thực phẩm làm mắc 4.012.038 ca bệnh với 123 người chết, trung bình mỗi năm có 668.673 ca bệnh và 21 người chết. Mỗi năm có khoảng 70.000 người chết do ung thư và hơn 200.000 ca phát hiện mới, trong đó có một phần nguyên nhân từ việc sử dụng thực phẩm không an toàn.

Đoàn giám sát thấy rằng quản lý an toàn thực phẩm đối với rau, quả, thịt, sản phẩm thịt tươi sống, kiểm soát giết mổ động vật, sản phẩm động vật còn là khâu yếu. Tỷ lệ tồn dư hóa chất vượt ngưỡng cho phép là 8,47% đối với rau; kiểm tra đối với 54.750 lượt hộ nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đã phát hiện 9.056 hộ vi phạm (chiếm 16,54%); kiểm tra 2.064 đợt với 63.230 lượt cơ sở sản xuất, buôn bán thuốc bảo vệ thực vật, phát hiện và xử lý trên 7.434 cơ sở vi phạm (chiếm 11,7%).

Việc kiểm soát an toàn thực phẩm theo chuỗi còn hạn chế, chủ yếu mới tập trung nguồn lực cho công tác kiểm soát điều kiện sản xuất, kinh doanh thực phẩm của cơ sở; việc kiểm soát quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm còn chưa được chú trọng nên rất khó đánh giá mức độ an toàn thực phẩm. Số lượng cơ sở thực phẩm được kiểm soát đủ điều kiện sản xuất, kinh doanh chiếm tỷ lệ còn thấp, hiện chỉ chiếm 33,6% trong tổng 408.821 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Tình trạng vi phạm quy định về an toàn thực phẩm khá phổ biến trong nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh thực phẩm, nhất là trong sản xuất, kinh doanh rượu, bia và nước giải khát...

Kiến nghị sử dụng 100% nguồn kinh phí xử phạt vi phạm hành chính

Đoàn giám sát nhận định: để xảy ra tình trạng mất an toàn thực phẩm như trên, trách nhiệm chính trước tiên thuộc về các cơ quan quản lý Nhà nước; tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh thực phẩm, các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội nghề nghiệp, người tiêu dùng thực phẩm trong đó trách nhiệm chính thuộc về cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

Đoàn giám sát đề xuất sớm tổng kết đánh giá 5 năm triển khai thi hành Luật an toàn thực phẩm và các văn bản pháp luật có liên quan để sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm; rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách về liên kết chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, chính sách khuyến khích phát triển công nghệ chế biến nông sản theo hướng gia tăng giá trị. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị về công tác đảm bảo an toàn thực phẩm, xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý chất lượng an toàn thực phẩm theo đúng phân cấp quản lý; tăng cường trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các cấp trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn; có lộ trình để giải quyết dứt điểm các vấn đề tồn tại trong quản lý an toàn thực phẩm như: kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, giết mổ nhỏ lẻ; kiểm soát chặt chẽ nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, kinh doanh thực phẩm, thực phẩm có nguy cơ cao; kiểm soát kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ, thức ăn đường phố…

Củng cố, kiện toàn các cơ quan quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm theo hướng sử dụng hiệu quả nguồn lực; đẩy mạnh công tác thông tin giáo dục truyền thông, đặc biệt là truyền thông làm thay đổi hành vi; kiểm soát chặt chẽ an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm nông, lâm, thủy sản trước khi đưa ra thị trường; xây dựng lộ trình xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực quản lý an toàn thực phẩm.

Đoàn giám sát kiến nghị cho phép sử dụng 100% nguồn kinh phí xử phạt vi phạm hành chính để thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm; xã hội hóa, đa dạng các nguồn lực tài chính và một số khâu dịch vụ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng an toàn thực phẩm...

Ban hành Nghị quyết kết quả hoạt động giám sát

Đoàn giám sát kiến nghị, đối với Quốc hội, Ban hành Nghị quyết kết quả hoạt động giám sát về đẩy mạnh việc thực thi chính sách pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2016-2020; xem xét sửa đổi một số văn bản pháp luật có liên quan để tạo thuận lợi cho công tác quản lý an toàn thực phẩm; yêu cầu Chính phủ hằng năm phải báo cáo với Quốc hội về kết quả thực hiện công tác quản lý an toàn thực phẩm vào kỳ họp cuối năm.

Đối với Chính phủ, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tránh bất cập, chồng chéo, không khả thi; kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm theo hướng tăng cường hiệu lực, hiệu quả để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý an toàn thực phẩm; chỉ đạo kiểm điểm nghiêm túc trách nhiệm các bộ, ngành đối với những tồn tại bất cập thuộc lĩnh vực quản lý; khắc phục các tồn tại, yếu kém và thực hiện các kiến nghị, giải pháp được Đoàn giám sát nêu trong báo cáo giám sát.

Một trong những nội dung được Đoàn giám sát lưu ý là bố trí đủ ngân sách Nhà nước cho công tác quản lý an toàn thực phẩm theo kế hoạch, ưu tiên nguồn vốn cho việc quy hoạch và thực hiện quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn; xây dựng chợ đầu mối, cơ sở giết mổ tập trung; vùng trồng rau an toàn. Ban hành chính sách hỗ trợ địa phương quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn; hỗ trợ việc áp dụng chương trình VietGAP; hỗ trợ người dân xây dựng các mô hình thí điểm sản xuất, kinh doanh theo hướng an toàn, quản lý theo chuỗi từ trang trại đến bàn ăn; phát triển sản xuất trồng trọt quy mô lớn tập trung, gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ. Chính phủ tăng cường chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện tốt công tác rà soát văn bản, sửa đổi các quy định không phù hợp, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm...

Đối với Ủy ban nhân dân các cấp, thực hiện đầy đủ chức năng quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn theo các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong việc cấp các loại giấy tờ liên quan đến quản lý an toàn thực phẩm cho các tổ chức, cá nhân; đẩy mạnh công tác quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn; phát triển vùng nguyên liệu tập trung cho chế biến thực phẩm, truy xuất được nguồn gốc.../.