Quản lý và thu hồi nợ của các công ty quản lý tài sản: Kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới
TCCSĐT - Các công ty quản lý tài sản (AMC) được thành lập để giải quyết các khoản nợ xấu của các thể chế tài chính kém hiệu quả, từ đó, giúp cải thiện bảng cân đối kế toán của tổ chức đó. Tại một số nước (điển hình như Trung Quốc), việc xử lý nợ xấu còn được gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Công ty quản lý tài sản và quá trình quản lý, thu hồi nợ (1)
Về mặt tổ chức, AMC có thể được thành lập dưới dạng công ty tư nhân hoặc công ty nhà nước, hoặc kết hợp cả hai thành phần trên. Một số AMC hoạt động một cách độc lập, một số khác được thành lập như một công ty con của ngân hàng. Đồng thời, tùy vào khung pháp lý được xây dựng ở mỗi nước mà quyền hạn của AMC, đặc biệt trong thu hồi, tịch biên các tài sản thế chấp của con nợ sẽ khác nhau.
Thông thường, sau khi mua nợ, việc đầu tiên mà các AMC làm là phân loại các khoản nợ thành các nhóm khác nhau để quản lý và thu hồi. Bên cạnh việc bán nợ, chứng khoán hóa các khoản nợ để thu hồi ngay tiền mặt, AMC có thể lựa chọn biện pháp tái cấu trúc các khoản nợ, tái cấu trúc các con nợ hoặc tịch thu các tài sản thế chấp, cũng như các tài sản khác thuộc sở hữu của con nợ. Các tài sản bị tịch thu này sau đó có thể xử lý theo hai cách: rao bán trên thị trường để thu tiền ngay hoặc lưu giữ để tiếp tục khai thác và sử dụng tài sản. Do sự khác nhau về tính chất giữa các loại tài sản vật chất và các khoản tín dụng nên thông thường các công ty AMC sẽ thành lập hai nhóm hoạt động riêng biệt để xử lý các loại tài sản này. Với nhóm quản lý nợ, nhiệm vụ chính là quyết định duy trì khoản nợ hay xử lý thu hồi luôn. Nếu quyết định tiếp tục duy trì khoản nợ, cách tiếp cận thông thường là gia hạn thời gian thanh toán, thực hiện các hợp đồng hoán đổi nợ - vốn, tái cấu trúc khoản nợ, hoặc nhóm các khoản nợ lại thành danh mục để bán. Nếu không muốn duy trì tiếp khoản nợ, nhóm xử lý nợ sẽ khuyến nghị tịch thu các tài sản thế chấp của khoản nợ, sau đó chuyển giao cho nhóm quản lý tài sản.
Một vấn đề nữa đặt ra là các AMC có nên bán các tài sản sau khi bị tịch biên cho chính các con nợ hay không. Lợi ích của việc này là các con nợ sẽ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn để mua lại khoản nợ của chính mình, cũng như lấy lại các tài sản đã thế chấp hơn bất kỳ ai (nhất là trong trường hợp các tài sản thế chấp đã và đang được con nợ khai thác, sử dụng). Tuy nhiên, những bất lợi đi kèm là sự xói mòn của các nguyên tắc tín dụng và làm cho con nợ cố tình vắng mặt một cách có chủ ý trong các cuộc đàm phán với chủ nợ. Trên thực tế, vẫn xảy ra trường hợp phải bán lại các khoản nợ xấu cho chính các con nợ là không thể tránh khỏi kể cả khi các con nợ không được phép mua trực tiếp các khoản nợ từ chủ nợ.
Xử lý và thu hồi nợ của một số nước trên thế giới
Một là, nhóm nước chịu tác động của khủng hoảng tài chính Đông Á
Sự thành lập các công ty quản lý tài sản AMC là một phần quan trọng trong nhóm giải pháp khẩn cấp cho cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997. Các công ty AMC ở đây được xem xét bao gồm: Công ty KAMCO (Hàn Quốc), Công ty Danaharta (Ma-lai-xi-a), Công ty IBRA (In-đô-nê-xi-a) và Công ty TAMC (Thái Lan). Do vấn đề nợ xấu diễn ra ở mức độ rất nghiêm trọng và mang tính hệ thống nên các AMC này được xây dựng theo mô hình thuộc sở hữu nhà nước nhằm bảo đảm nguồn tài chính, độ tín nhiệm và khung pháp lý cần thiết để có thể tiến hành xử lý nợ. Mục tiêu chiến lược của sự thành lập các công ty này, bên cạnh việc ngăn chặn sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng, giữ ổn định hệ thống tài chính còn có hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế. Do vậy, ngoài biện pháp bán nợ, các AMC cũng có thể tìm cách cải thiện chất lượng của các tài sản bị tịch biên, cũng như bảo tồn những giá trị kết quả kinh doanh của các con nợ nếu các hoạt động đó còn có thể tiếp tục và tạo ra giá trị thu về lớn hơn giá trị thanh lý các khoản nợ.
Một đặc điểm nổi bật của các AMC Đông Á là sự hậu thuẫn tích cực từ phía chính phủ. Các đạo luật được xây dựng với nhiều quyền hạn đặc biệt được trao cho công ty AMC. Chẳng hạn như Ma-lai-xi-a, vào năm 1998, nước này đã ban hành đạo luật Danaharta, trao cho AMC những đặc quyền mà không một tổ chức tài chính nào trước đó có thể có được trong lịch sử ngành tài chính. Danaharta có cả quyền bổ nhiệm lãnh đạo ở các tổ chức chịu nợ và quyền tịch biên các tài sản thế chấp. Ở Hàn Quốc, chính phủ đã ban hành nhiều luật thuế đặc biệt để khuyến khích khả năng bán các khoản nợ xấu: giảm 50% thuế trên thặng dư vốn thu được từ việc chuyển đổi các tài sản sở hữu, miễn giảm thuế giao dịch chứng khoán khi mua cổ phiếu của các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán với mục đích tổ chức lại các tổ chức này và sau đó, chuyển đổi cho bên thứ ba. Còn với trường hợp của In-đô-nê-xi-a, đứng trước tình hình tái cơ cấu các công ty chịu nợ diễn ra chậm chạp và kém hiệu quả, Ủy ban chính sách tài chính (FSPC) của Chính phủ In-đô-nê-xi-a đã ban hành Nghị định Kep.01/K.KKSK/05/2002 yêu cầu việc tái cơ cấu phải hoàn thành trong vòng 6 tháng, nếu không sẽ chuyển sang áp dụng biện pháp thu hồi nhanh. Nhờ có Nghị định này mà quá trình tái cơ cấu các con nợ sau đó đã được diễn ra nhanh chóng và suôn sẻ hơn (2).
Hai là, các AMC tại Trung Quốc
Các AMC tại Trung Quốc là một dạng sản phẩm trung gian của các tập đoàn nhà nước và các công cụ tái cấu trúc trong trung hạn. Ở đây xem xét các AMC thuộc sở hữu nhà nước và được thành lập trực thuộc các ngân hàng lớn (Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Xây dựng và Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại). Các AMC này được thành lập nhằm giải quyết những khoản nợ xấu của 4 ngân hàng từ trước năm 1996 với tổng giá trị lên tới 1,4 nghìn tỷ NDT (169 tỷ USD), chiếm 19% GDP của Trung Quốc năm 1999 (3).
Phương pháp được sử dụng chủ yếu là tái cơ cấu, sắp xếp lại nợ với sự thỏa thuận giữa bên cho và bên nhận nợ, hoặc chuyển nhượng nợ thành cổ phần. Sau quá trình chuyển nhượng, các AMC sẽ được tham gia vào quản trị doanh nghiệp, tái cấu trúc doanh nghiệp và khi các doanh nghiệp này hoạt động có lợi nhuận trở lại, các AMC có quyền nhận cổ tức và bán lại cổ phần cho các doanh nghiệp với mức giá thỏa thuận trước trong vòng 10 năm. Đồng thời, nếu doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, các AMC cũng được ưu tiên rút vốn khỏi các doanh nghiệp này. AMC cũng áp dụng chiến lược thu nợ nhanh thông qua đốc thúc hoàn nợ như thúc đẩy thu mua, ra tòa, bồi thường… Đồng thời, các AMC cũng tích cực xử lý nợ xấu bằng cách chuyển nhượng, đấu giá tài sản, cho thuê tài sản, tái cơ cấu tài sản để hỗ trợ cho doanh nghiệp. Theo đó, các AMC sẽ tập hợp các khoản nợ, lên danh mục đầu tư, bán đấu giá, chuyển đổi thành cổ phiếu (4).
Về mặt pháp lý, khác với các AMC ở Đông Á, AMC ở Trung Quốc không có quyền lập pháp đặc biệt, quyền tự chủ và quyền điều tiết hành chính hạn chế. Tuy nhiên, AMC này cũng được hưởng những hỗ trợ nhất định, như chính sách thuế ưu đãi khi thu hồi và thanh lý nợ, ưu đãi với các khoản phí đăng ký đất đai, tiền thưởng cho các AMC hoạt động hiệu quả…
Tính xã hội cao là một đặc điểm đặc trưng khác trong hoạt động thu mua và xử lý nợ của các AMC Trung Quốc. Hầu hết các khoản nợ được mua về có nguồn gốc là các khoản cho vay chính sách của 4 ngân hàng lớn trên trong một thời gian dài. Bên cạnh đó, việc xử lý nợ cũng có những khó khăn nhất định, bởi việc bán các công ty nhà nước lớn cho các nhà đầu tư tư nhân hoặc nước ngoài có thể khiến những công ty này thay đổi ngành, nghề kinh doanh chính của mình, thậm chí, có thể dẫn đến phá sản hoặc tạm thời đóng cửa công ty. Điều này có thể gây ra nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế - xã hội của các địa phương dẫn đến tình trạng thất nghiệp cho hàng chục nghìn người. Chính vì vậy, khi thực hiện xử lý nợ, các AMC này bị ràng buộc đồng thời mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội.
Ba là, các AMC của Mỹ
Năm 1989, Chính phủ Mỹ thành lập Công ty ủy thác xử lý nợ RTC (Resolution Trust Corporation) theo Đạo luật Cải tổ, phục hồi và quản lý các thể chế tài chính (FIRREA). RTC đóng vai trò là một cơ quan liên bang giám sát, quản lý, thu hồi tài sản của các thể chế tiết kiệm và cho vay liên bang bị vỡ nợ do cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay những năm 1980. Với tư cách là một cơ quan nhà nước, RTC có các mục tiêu: tối đa hóa lợi nhuận ròng từ việc bán các tài sản chuyển giao, tối thiểu hóa ảnh hưởng đến thị trường bất động sản và tài chính địa phương, cũng như hỗ trợ các cá nhân có thu nhập thấp có thể tiếp cận và chi trả cho các khoản mua nhà. Khoản tài sản được chuyển giao ước tính lên đến 465 tỷ USD và tương đương khoảng 8,5% GDP của Mỹ năm 1989. Thêm vào đó, khoảng 50% số tài sản trên là nợ bất động sản và tài sản thế chấp, 35% là tiền và các chứng khoán khác.
Về cách thức xử lý tài sản, RTC xây dựng Chương trình đầu tư nhỏ (SIP) vào tháng 6-1993 để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư có mức vốn vừa phải. Theo SIP, RTC chào bán các tài sản bất động sản cho các cá nhân trong ít nhất 120 ngày, hoặc thông qua môi giới, đấu giá, hoặc bán đấu giá kín. Tài sản được bán theo chương trình SIP có tính tập trung cao về mặt địa lý để thu hút các nhà đầu tư nhỏ, những người muốn đầu tư vào chính thị trường địa phương của họ.
RTC cũng thực hiện một chương trình bán buôn mà trước tiên, tập trung vào các tài sản thế chấp của dân cư và thế chấp thương mại hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong khối tài sản mà họ nắm giữ. Đầu tiên, RTC thực hiện nhóm tài sản trong nội bộ và sau đó bán danh mục tài sản. Cho đến năm 1990, RTC vẫn dựa chủ yếu vào khu vực tư nhân trong việc định giá, đóng gói và bán các danh mục cho vay của mình. Để tăng cầu cho thị trường, RTC giới thiệu chương trình giao dịch có cấu trúc. Đây là một hình thức bán danh mục đầu tư được xây dựng nhằm tăng doanh số bán ra, ngược hoàn toàn với chương trình bán tài sản thương mại chỉ dựa trên cơ sở cá nhân. Việc đóng gói/nhóm các tài sản được cấu trúc trên cơ sở ý kiến của các nhà đầu tư và nguồn tài chính sẵn có.
Một phương pháp nữa là chứng khoán hóa các tài sản. Đây là quá trình mà các tài sản có dòng tiền tương lai và các đặc điểm tương tự được nhóm vào một chứng khoán có trả lãi có các đặc tính đầu tư mua bán được trên thị trường. Các tài sản được chứng khoán hóa khá đa dạng, bao gồm tài sản thế chấp như thế chấp nhà, thế chấp thương mại, cho thuê, các hợp đồng lắp đặt trên tài sản cá nhân. Với RTC, do khối lượng các khoản vay thế chấp chiếm tỷ lệ lớn trong danh mục tài sản xử lý, phương pháp này được sử dụng như một cách để thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận song song với việc thanh lý được các tài sản một cách nhanh chóng.
Có thể rút ra một số đặc điểm tiêu biểu trong chiến lược xử lý tài sản của RTC:
Sự kết hợp giữa tư nhân và nhà nước: Theo luật, RTC được khuyến khích hợp tác với khu vực tư nhân trong việc thu hồi và xử lý tài sản. Điều này có thực hiện thông qua thuê các nhà quản lý danh mục cho vay và bất động sản từ khu vực tư nhân, quản lý các tài sản, tiếp thị đấu giá, dịch vụ môi giới... nếu các dịch vụ này có thể được cung cấp bởi khu vực tư nhân.
Sự linh hoạt trong chiến lược giá: Theo luật, RTC bị quy định không làm giảm giá trị các tài sản tại địa phương khi thu hồi và xử lý nợ. Cụ thể là không được bán các tài sản tại các khu vực khó khăn với giá thấp hơn 95% giá trị thị trường được xác định bởi Ban giám đốc của RTC, trừ khi, Ban giám đốc này xác nhận việc bán các tài sản là để phục vụ cho các mục đích xa hơn, chẳng hạn như để tối đa hóa lợi nhuận ròng. Tuy nhiên, do mức tài sản tồn kho ngày càng gia tăng nhanh chóng, RTC sau đó đã thông báo chính sách giá mới mà theo đó, họ sẽ chiết khấu đến 30% giá trị đã qua thẩm định của tài sản nếu như chúng không được bán trong kế hoạch thời gian cụ thể của RTC.
Nhìn chung, RTC được coi là một cơ chế thành công trong việc xử lý tài sản và thu hồi vốn cho người gửi tiền, mặc dù có nhiều nhà phê bình cho rằng, RTC không thu được mức lợi nhuận cao đối với tài sản đã bán.
Bài học kinh nghiệm
Qua tìm hiểu cách vận dụng mô hình AMC tại nhiều nước, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm.
Thứ nhất, kết hợp bán nợ và tái cấu trúc các khoản nợ/con nợ
Kinh nghiệm từ các nước cho thấy, kết hợp giải quyết nợ trong ngắn hạn, trung hạn là một chiến lược hiệu quả để giảm thiểu tổn thất ở mức tối đa. Nguyên nhân là vì việc bán các khoản nợ trong ngắn hạn giúp tạo ra nguồn tài chính cho hoạt động của các AMC, bên cạnh đó cũng tạo ra nguồn vốn để AMC tiếp tục mua và xử lý các khoản nợ xấu khác. Tuy nhiên, khi quyết định bán nợ, các AMC thường phải chấp nhận một mức chiết khấu khá cao. Còn với việc tái cấu trúc các khoản nợ hoặc con nợ, tuy chậm thu hồi giá trị, nhưng lại tạo ra tỷ lệ thu hồi rất khả quan. Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, nhiều doanh nghiệp dù có nền móng kinh doanh vững chắc vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, từ đó dẫn đến việc chậm chi trả các khoản nợ. Bên cạnh đó, cũng có nhiều doanh nghiệp do cơ cấu tổ chức chưa chặt chẽ, chiến lược kinh doanh không hiệu quả nên dẫn đến làm ăn thua lỗ. Chính vì vậy, sự tham gia của các AMC với những tiềm năng của mình sẽ giúp cho các doanh nghiệp này tiếp tục tồn tại và hoạt động kinh doanh qua giai đoạn khó khăn. Đồng thời, đây cũng là cách giúp ổn định môi trường kinh doanh, hạn chế thất nghiệp. Thêm vào đó, chúng ta cũng thấy được, trong những cách giải quyết nợ nhanh, bán nợ là một trong những phương pháp hiệu quả và phù hợp với các nước có thị trường vốn chưa thật sự phát triển.
Thứ hai, tận dụng khu vực tư nhân và nước ngoài
Khu vực tư nhân và nước ngoài là những đối tượng có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý tài sản. Các công ty AMC có thể hợp tác với nhóm đối tượng này thông qua các hợp đồng liên doanh, liên kết trong xử lý nợ, bán và chuyển nhượng các khoản nợ. Tuy nhiên, những tình huống bất lợi cũng có thể phát sinh khi các tài sản thuộc sở hữu quốc gia bị chuyển thành sở hữu tư nhân và sở hữu nước ngoài. Trên thực tế, các AMC quốc gia luôn bị ràng buộc bởi đồng thời mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Chính vì vậy, kinh nghiệm từ các AMC là phải phân tài sản thành các nhóm riêng, căn cứ vào tính chất, đối tượng, khả năng thu hồi… để xử lý. Đây là một cách tốt giúp bán được các tài sản có thể bán cho nhóm đối tượng này, từ đó, đẩy nhanh quá trình bán nợ, thu nợ. Thêm vào đó, AMC cũng có thể tận dụng nguồn nhân lực các chuyên gia nước ngoài trong việc hỗ trợ, tư vấn từ chiến lược, chính sách cho đến các biện pháp kỹ thuật trong quá trình xử lý thu hồi nợ.
Thứ ba, vai trò của Nhà nước
Sự hỗ trợ từ phía Nhà nước có tác dụng lớn đối với tính hiệu quả của các công ty AMC. Các cách thức hỗ trợ thường được áp dụng là trao cho AMC các quyền lực đặc biệt để có thể thu hồi các tài sản thế chấp, thu hồi tài sản của các con nợ đã vỡ nợ, miễn giảm các loại thuế, lệ phí, thưởng tiền khi các AMC đạt được tỷ lệ thu hồi cao, hỗ trợ trong các thủ tục hành chính, pháp lý… nhưng điểm mấu chốt nhất vẫn là phải hoàn thiện hệ thống khung pháp lý cho các hoạt động của AMC. Bên cạnh những lợi ích, sự sở hữu và chỉ đạo của Nhà nước đôi khi cũng tạo ra những quan ngại về hoạt động của các AMC khi các áp lực chính trị (từ phía nhà nước, cá nhân lãnh đạo…) gia tăng. Vì vậy, AMC nếu muốn đạt được hiệu quả trong hoạt động nói chung, cũng như trong quá trình xử lý nợ nói riêng, cần có những cách tiếp cận khéo léo và linh hoạt để tận dụng được tối đa những lợi thế của một AMC mang tầm cỡ quốc gia trong hoạt động quản lý và thu hồi nợ./.
--------------------------
(1) David Woo (2000): Two approaches to resolving nonperforming assets during financial crises, IMF Working paper No.WP/00/33
(2) Ben Fung, Jason George, Stefan Hohl, Guonan Ma: Public asset management companies in East Asia - Case studies
(3) Viện nghiên cứu và quản lý trung ương: Giải quyết nợ xấu - vấn đề mấu chốt trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, Trung tâm thông tin tư liệu - Số 1/2013
(4) NGND, PGS, TS.Tô Ngọc Hưng (2012), Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số quốc gia và những bài học cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 125, Quý IV
Phó Thủ tướng thăm và tặng quà gia đình chính sách tại Nam Định  (24/01/2017)
Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình kiểm tra công tác ứng trực phục vụ Tết Nguyên đán  (24/01/2017)
Thủ tướng kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu của cảnh sát cơ động  (24/01/2017)
Việt Nam mong muốn hợp tác với Singapore “theo tư duy mới”  (24/01/2017)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm