Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - Nội dung quan trọng trong nhiệm vụ đột phá của tỉnh Hà Tĩnh hiện nay

ThS. Nguyễn Xuân Bé Phó trưởng Phòng Đào tạo, Trường Chính trị Trần Phú, Hà Tĩnh
16:24, ngày 11-05-2016

TCCSĐT - Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 trên cơ sở đánh giá tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã rút ra những bài học kinh nghiệm cho chặng đường mới. Đại hội khẳng định vai trò, tầm quan trọng của yếu tố con người - nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, coi đây là một trong bốn bài học cốt lõi cho quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành nhiệm kỳ 2015 - 2020.

Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh khóa XVII đã chỉ rõ: “Quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp bố trí cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp có phẩm chất, năng lực, năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có khát vọng, tâm huyết, tổ chức thực hiện sáng tạo, hiệu quả các chủ trương, nghị quyết. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường kỷ luật, kỷ cương và kiểm tra, giám sát; động viên, khen thưởng kịp thời”(1). Việc cụ thể hóa bài học này là đòi hỏi cần thiết và cấp bách cho nhiệm kỳ tới. Đại hội khẳng định “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” là một trong những nội dung quan trọng trong các nhiệm vụ đột phá của Đại hội XVIII để sớm đưa Hà Tĩnh “phát triển nhanh hơn, bền vững hơn theo hướng công nghiệp hiện đại”(2).

Nhìn lại sự phát triển của nhân loại qua các giai đoạn lịch sử, một trong những bài học xuyên suốt mà các quốc gia, dân tộc đều đúc kết là phải phát huy vai trò của nhân tố con người với tư cách là chủ thể của lịch sử. Chính các nhà kinh điển C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V. I. Lê-nin cũng đã khẳng định trong các tác phẩm của mình về vị trí, tầm quan trọng của lực lượng sản xuất. Đặc biệt đã nhấn mạnh vai trò của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất là nhân tố hàng đầu cho sự vận động và phát triển của lịch sử nhân loại. V. I. Lê-nin đã chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”(3).

Đối với Việt Nam chúng ta, trong quá trình dựng nước và giữ nước, các bậc đế vương xưa đã hết sức quan tâm chăm lo xây dựng và phát triển nhân tố con người với tư cách là chủ thể của quá trình dựng nước và giữ nước bằng chính sách khoan thư sức dân, khuyến khích học tập và trọng dụng hiền tài. Tại Văn miếu Quốc Tử Giám - một trong những bằng chứng về tinh thần trọng dụng nhân tài của cha ông được biết đến với câu khắc trên tấm bia khoa bảng đầu tiên năm 1442: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo xây dựng nhân tài”. Tấm bia năm 1448 lại nhắc, “nhân tài đối với quốc gia quan hệ rất lớn” và “phải có đào tạo sau mới có nhân tài”.

Trong thời đại Hồ Chí Minh, Đảng ta đã luôn chăm lo phát triển nhân tố con người, đặc biệt chú trọng phát triển nguồn nhân lực để thực hiện thành công hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”(4). Trong thời kỳ đất nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta đã khẳng định nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của nhân tố con người. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”.

Kế thừa và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của con người nói chung và nguồn nhân lực nói riêng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã quan tâm đối với việc xây dựng và phát huy nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực vì sự tiến bộ của xã hội và phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc. Điều đó thể hiện rõ ở các quan điểm và mục tiêu về phát triển con người được nêu trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng trong nhiều nhiệm kỳ. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII “Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000” đã khẳng định một trong những tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là “nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên” như lời dặn của Bác Hồ”. Nghị quyết số 29 -NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo trong giai đoạn mới, đó là: “Phát triển giáo dục - đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội ”. Gần đây nhất, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp tục khẳng định: “... Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”(5). Chính nhờ chăm lo phát triển nguồn nhân lực, Việt Nam đã bước đầu thực hiện có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trên mọi phương diện trong các tổ chức hợp tác mà Việt Nam là thành viên.

Thực hiện tốt nhiệm vụ đột phá

Hà Tĩnh, mảnh đất giàu truyền thống văn hóa và cách mạng, người dân Hà Tĩnh cần cù sáng tạo, chịu thương, chịu khó là những nét đẹp thuộc về bản sắc quê hương. Trong những năm qua, quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và từ những bài học quý báu của quá trình xây dựng và phát triển của tỉnh nhà, nhất là từ khi tái lập tỉnh đến nay, Đảng bộ Hà Tĩnh luôn chăm lo phát triển, nâng cao chất lượng nhân tố con người, đặc biệt là chăm lo xây dựng phát triển nguồn nhân lực. Điều đó được thể hiện rõ bằng việc kịp thời ban hành các nghị quyết như: Nghị quyết số 03-NQ/TU, ngày 03-11-2011, của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVII “Về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân đến năm 2015 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 20-12-2011, của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVII “Về phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đến năm 2015 và những năm tiếp theo”. Đặc biệt đã ban hành một số cơ chế, chính sách, đề án phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Hiệu quả chăm lo phát triển nguồn nhân lực được thể hiện rõ ở những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của tỉnh nhà trong những năm qua, nhất là trong giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 18% (chỉ tiêu Đại hội trên 14%); cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng nhanh, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng - dịch vụ trên 82%; giảm tỷ trọng nông nghiệp; GRDP bình quân đầu người đạt trên 44 triệu đồng (chỉ tiêu Đại hội là 35 triệu đồng).

Tuy nhiên, khi tỉnh Hà Tĩnh đặt vấn đề đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội trong các nhiệm kỳ tới thì một trong những khó khăn, thách thức đầu tiên phải kể đến, đó là chất lượng, số lượng nguồn nhân lực bao gồm cả nhân lực lãnh đạo quản lý và nhân lực lao động kỹ thuật, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao để có đủ khả năng điều hành quản lý các chương trình, mục tiêu kinh tế - xã hội trọng tâm của tỉnh, làm chủ nền khoa học - công nghệ trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức, trong thời kỳ hội nhập cả chiều rộng lẫn chiều sâu như hiện nay. Thực trạng phát triển kinh tế trong những năm qua thể hiện rõ sự thiếu hụt và bất cập về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực nhất là nhân lực chất lượng cao. Một số cơ sở đào tạo chưa đạt chuẩn cả về đội ngũ giảng viên cán bộ quản lý và cơ sở vật chất trang thiết bị nên chất lượng đào tạo yếu, chưa đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp, địa phương. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVII trình tại Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm đó: “Cơ sở, vật chất, trang thiết bị, năng lực của các cơ sở dạy nghề nhìn chung còn thiếu và yếu; chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực có trình độ, tay nghề cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh; cơ cấu lao động chuyển dịch chậm; giải quyết việc làm cho sinh viên ra trường, chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn còn nhiều khó khăn...”.

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra ba nhiệm vụ đột phá, trong đó ở nhiệm vụ đột phá thứ hai có một nội dung rất quan trọng, đó là phải “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” nhằm hướng tới tháo gỡ những điểm nghẽn trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh bằng cách xây dựng một đội ngũ những người làm chủ xã hội, đủ trí tuệ và bản lĩnh tổ chức hoạch định và triển khai các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Nhiệm vụ này phải được các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở nhận thức một cách sâu sắc, thấm nhuần để biến thành hành động cụ thể, hiệu quả.

Xây dựng và phát huy nguồn nhân lực chính là xây dựng phát huy nhân tố con người. Đây là nhiệm vụ trọng tâm cấp bách và mang tính chiến lược, không phải trong một thời gian ngắn có thể đạt được. Trong những năm tiếp theo, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời yêu cầu mới đặt ra từ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cần thực hiện đồng bộ, thống nhất một số nội dung sau:

Một là, các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể chính trị, xã hội cần làm tốt công tác tuyên truyền, đổi mới nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng bảo đảm phát triển bền vững của địa phương. Xây dựng phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của toàn xã hội, của các cấp lãnh đạo, của nhà trường, doanh nghiệp, gia đình và mỗi công dân. Từ đó, nhanh chóng khắc phục những bất cập, yếu kém về nguồn nhân lực, như số lượng đông, tay nghề thấp, thiếu tác phong công nghiệp...

Cấp ủy, chính quyền các cấp cần tập trung nguồn lực để triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 878/QĐ-UBND, ngày 27-3-2012, của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2011 - 2020. Trước mắt cần tiếp tục tập trung nâng cao chất lượng công tác giáo dục phổ thông, thực hiện tốt công tác định hướng phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tập trung nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề hiện có đạt tiêu chuẩn quốc gia, khu vực và quốc tế; tăng cường liên kết với các trường đại học, các cơ sở đào tạo có uy tín ở trong nước; mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực. Tiếp tục nghiên cứu cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành các cơ chế chính sách riêng của tỉnh nhằm thu hút nhân tài; tăng cường quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nhân lực.

Hai là, phát huy vai trò của gia đình, tạo sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc chăm lo phát triển nguồn nhân lực. Việc chăm lo xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trước hết phải được thực hiện từ chính mỗi gia đình, dòng họ. Mỗi gia đình ngoài sự chăm sóc nuôi dưỡng cần phải có sự định hướng phát triển cho thế hệ trẻ để chính những chủ nhân tương lai của đất nước có thể vững vàng lựa chọn ngành, nghề ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Bên cạnh đó, xây dựng cho thế hệ trẻ có lối sống lành mạnh, giàu lòng yêu thương con người, có tinh thần đoàn kết, khát khao cống hiến cho quê hương, đất nước. Các cấp, bậc học phải tăng cường giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục, quản lý theo dõi, tư vấn phân luồng học sinh học nghề từ trung học cơ sở, gắn học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội.

Ba là, đối với nguồn nhân lực lãnh đạo quản lý, cấp ủy các cấp cần sớm xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ mới. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo vị trí, chức danh công việc nhằm bảo đảm cho đội ngũ đạt chuẩn về trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, dày dạn thực tiễn, có bản lĩnh trong xây dựng và hoạch định các chiến lược kinh tế - xã hội của tỉnh. Để làm tốt nội dung này, trước hết phải không ngừng nâng cao chất lượng công tác cán bộ, gắn quy hoạch với đào tạo và bố trí sử dụng. Bảo đảm tính kế thừa theo mỗi giai đoạn, nhiệm kỳ. Thực hiện chính sách đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ, giảng viên cho Trường Chính trị tỉnh và Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện để thực sự là cái nôi đào tạo những người vừa “hồng”, vừa “chuyên” cho Đảng, cho nhân dân; xây dựng cơ chế đánh giá, sàng lọc chặt chẽ, đồng thời dựa vào nhân dân để lựa chọn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ trí tuệ, tâm huyết và kinh nghiệm đứng vào hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của tỉnh.

Bốn là, cải tiến và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các chủ thể tham gia phát triển nhân lực. Trên cơ sở Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của quốc gia, của bộ, ngành Trung ương và của tỉnh đến năm 2020, các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực của địa phương, đơn vị mình cho phù hợp; trong quá trình quy hoạch cần lấy ý kiến rộng rãi của các nhà khoa học, của doanh nghiệp và nhân dân. Trên cơ sở các quy hoạch, nghiên cứu, đề xuất các chương trình, đề án, chính sách, cơ chế phát triển nguồn nhân lực phù hợp. Thủ trưởng các ngành, đơn vị, chủ tịch ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã phải xác định rõ phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm của ngành, địa phương mình để tập trung chỉ đạo, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Xây dựng và phát huy nguồn nhân lực trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đối với một tỉnh mà điểm xuất phát thấp như Hà Tĩnh là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Do đó, việc thực hiện đồng bộ và thống nhất các giải pháp trong toàn bộ hệ thống chính trị từ tỉnh tới cơ sở là yếu tố cốt lõi cho sự thành công trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ đột phá mà Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII đã đề ra./.

-----------------------------

(1) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh khóa XVII tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII.

(2) Trích chủ đề Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh khóa XVII trình tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII.

(3) V. I. Lê-nin: Toàn tập, t. 38, Nxb. Tiến bộ, 1997, tr. 430

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 12, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011, tr. 222

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết TW lần 9 khóa XI (NQ số 33-NQ/TW) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.