Vĩnh Long phấn đấu trở thành tỉnh khá trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Trần Văn Rôn Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long
21:46, ngày 21-12-2015

TCCS - Chú trọng phát triển kinh tế - xã hội, trong giai đoạn 2010 - 2015 Vĩnh Long đã thực hiện thắng lợi mục tiêu trở thành tỉnh phát triển trung bình khá của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Phát huy kết quả đạt được, Đảng bộ Vĩnh Long đề ra nhiệm vụ chính trị cho giai đoạn 2016 - 2020 phấn đấu trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực.

1- Với quyết tâm cao, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX (nhiệm kỳ 2010 - 2015), sau 5 năm, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Vĩnh Long đã tạo sự chuyển biến tích cực và toàn diện trên mọi lĩnh vực, nhất là phát triển kinh tế - xã hội đã đưa Vĩnh Long trở thành tỉnh phát triển trung bình khá của khu vực.

Phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải quyết vấn đề nông dân, nông thôn. Giá trị sản xuất toàn ngành nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 2,74%/năm. Cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng, tích cực, giảm 3,5% tỷ trọng trồng trọt, tăng dần tỷ trọng chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp, từng bước hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh phát huy tiềm năng, lợi thế cho phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương trong tỉnh, nhiều cơ sở sản xuất được chứng nhận VietGAP, GlobalGAP. Hệ thống thủy lợi được cải tạo, nâng cấp hạ tầng đồng ruộng, đẩy mạnh cơ giới hóa và phát triển sản xuất khoa học công nghệ được tích cực nghiên cứu, chuyển giao, áp dụng vào sản xuất và nhân rộng hiệu quả các mô hình tiên tiến.

Công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp duy trì được mức tăng trưởng khá, giá trị sản xuất tăng bình quân 11,61%/năm. Phát triển sản xuất công nghiệp được xác định tập trung theo hướng nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh, tạo được nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Các doanh nghiệp chú trọng đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị và chất lượng để tăng khả năng cạnh tranh, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao với những bước tiến vững chắc vào các thị trường trong và ngoài nước, như giày da, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ, bia, thức ăn chăn nuôi và gạch gốm... Tiểu - thủ công nghiệp ở khu vực nông thôn cũng tiếp tục được mở rộng, đặc biệt đã bảo tồn và phát triển các làng, ngành, nghề truyền thống, góp phần khai thác tốt nguồn nguyên liệu tại chỗ của địa phương, tạo thêm việc làm, mang lại thu nhập cao cho người lao động.

Thương mại - dịch vụ phát triển đồng bộ, nâng cao chất lượng, hiệu quả, thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện đại. Hoạt động nội thương tăng trưởng nhanh, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng bình quân 15,61%/năm. Hoạt động ngoại thương tăng khá, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2015 ước đạt 330 triệu USD (gấp 1,3 lần so với năm 2010). Các ngành dịch vụ có chuyển biến và tăng trưởng ổn định bình quân 8,03%/năm, từng bước được đa dạng hóa, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất, kinh doanh.

Trong nhiệm kỳ qua, tỉnh rất chú trọng đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng kết hợp đa mục tiêu, từng bước hoàn chỉnh hệ thống giao thông cấp tỉnh, nâng cấp giao thông cấp huyện và khu vực nông thôn. Đến nay, toàn tỉnh có 1.435km đường ô-tô, tăng 633km so với năm 2010; 100% số xã có đường ô-tô đến trung tâm. Hệ thống thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất trường học, trạm y tế, bệnh viện và trung tâm y tế được tập trung đầu tư, xây dựng ngày càng hoàn thiện. Hệ thống lưới điện được mở rộng, nâng cao số hộ sử dụng điện, giảm điện kế phụ; đến nay, điện lưới quốc gia đã phủ kín 100% số khóm, ấp với tỷ lệ hộ dân sử dụng điện trong toàn tỉnh đạt 99,5%. Mạng lưới cung cấp nước sạch, hợp vệ sinh được xây dựng mới, nâng cấp, nâng công suất cấp nước nên tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch ở đô thị từ hệ thống cấp nước tập trung đạt 96%, ở nông thôn đạt 60% (tăng 31% so với năm 2010). Hệ thống giao thông nông thôn kết hợp thủy lợi đã chủ động tưới tiêu cho 107.500ha đất sản xuất nông nghiệp, thủy sản (chiếm 91% tổng diện tích, tăng 5% so với năm 2010).

Nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp và nhân dân trong xây dựng nông thôn mới ngày càng được nâng lên. Bộ máy thực hiện được tổ chức đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở. Công tác quy hoạch và lập đề án được hoàn thiện. Nguồn lực đầu tư cho Chương trình được ưu tiên theo kế hoạch. Tính đến nay, toàn tỉnh có 12 xã đạt xã nông thôn mới và dự kiến cuối năm 2015 có 21/89 xã được công nhận xã nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2014 đạt 24,87 triệu đồng (tăng 1,83 lần so với năm 2010).

Cấp ủy các cấp tập trung cao trong lãnh đạo đổi mới, phát triển giáo dục - đào tạo theo hướng toàn diện. Quy mô, mạng lưới giáo dục và đào tạo thường xuyên được củng cố, tăng cường. Cơ sở trường lớp được đầu tư từng bước hiện đại, số lượng trường đạt chuẩn quốc gia đạt tỷ lệ 32,03% (tăng 16,49% so với năm 2010). Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục luôn được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chất lượng giảng dạy, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn là 99,8% và trên chuẩn: 62,68%.

Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân và công tác dân số luôn được quan tâm. Mạng lưới cung ứng dịch vụ khám, chữa bệnh được củng cố theo hướng công bằng, hiệu quả, nâng cao chất lượng. Đã có 93,5% số xã, phường, thị trấn có trạm y tế đạt chuẩn và 100% số trạm này đều có bác sĩ làm việc. Cơ sở vật chất ngành y tế được nâng cao, trang thiết bị ngày càng hiện đại; từng bước đầu tư cho các bệnh viện, trung tâm y tế từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện nhằm nâng cao năng lực phục vụ. Tính đến nay, đạt 24,3 giường bệnh/vạn dân và 5,9 bác sĩ/vạn dân. Việc chăm sóc sức khỏe cho đối tượng chính sách, hộ nghèo và trẻ dưới 6 tuổi được tập trung thực hiện tốt. Độ bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từng bước được mở rộng, tỷ lệ người dân có thẻ bảo hiểm y tế đạt 71% (tăng 21,4% so với năm 2010).

Các chính sách chăm lo người có công và các đối tượng chính sách được triển khai thực hiện đồng bộ và kịp thời. Trong nhiệm kỳ qua, tỉnh đã vận động xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa” được 23,5 tỷ đồng; huy động thêm nhiều nguồn khác để xây dựng và sửa chữa, nâng cấp 2.609 căn nhà tình nghĩa; vận động được 772,85 tỷ đồng để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Các chính sách bảo trợ, trợ cấp xã hội luôn được quan tâm thực hiện, đã chi trả cho 143.352 lượt người với tổng số tiền là 339,31 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,54%/năm, đến nay chỉ còn 2,54% trong tổng số hộ trên địa bàn.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, như tăng trưởng kinh tế mới dừng lại ở mức 6,97%; sản xuất nông nghiệp phát triển chưa thật sự bền vững, còn thiếu tính liên kết trong chế biến và tiêu thụ; việc triển khai thực hiện đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp còn lúng túng; các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa lớn; quy mô sản xuất công nghiệp còn nhỏ, trình độ quản trị doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa cao; công tác hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất và mở rộng thị trường còn hạn chế; trên lĩnh vực văn hóa - xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc; đổi mới giáo dục và đào tạo chuyển biến chưa thật sự toàn diện, đồng bộ; độ bao phủ bảo hiểm xã hội và y tế chưa cao; công tác giảm nghèo chưa thật sự bền vững,...

Nguyên nhân của những hạn chế trên do công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đôi lúc chưa kịp thời; năng lực thực hiện của đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế; công tác nghiên cứu, dự báo chưa sát với tình hình thực tiễn. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu làm thị trường bị thu hẹp, hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, giảm cơ hội đầu tư và việc làm; cùng với những yếu kém nội tại của nền kinh tế trong mô hình tăng trưởng, cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả đã tích tụ nhiều năm chậm được khắc phục. Điều đó gây bất ổn đối với kinh tế vĩ mô, lạm phát tăng cao, tốc độ tăng trưởng và sức cạnh tranh bị suy giảm, tác động tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân trong tỉnh.

2- Phát huy những thành tựu đạt được, nhanh chóng khắc phục những hạn chế yếu kém ở nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đảng bộ Vĩnh Long xây dựng Chương trình hành động tổng quát cho nhiệm kỳ 2016 - 2020 là “Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đoàn kết và trí tuệ toàn dân; tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phấn đấu đến năm 2020 Vĩnh Long trở thành tỉnh khá trong khu vực”. Với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội là tiếp tục huy động mọi nguồn lực, khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý hơn; triển khai đạt hiệu quả các giải pháp về cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phát triển đô thị; tăng trưởng kinh tế theo hướng chất lượng, bền vững gắn với phát triển văn hóa và tiến bộ, công bằng xã hội, tỉnh đã chọn 3 khâu đột phá: Thứ nhất, phát triển và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao. Mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục, đào tạo và nâng cao kỹ năng để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Thứ hai, tiếp tục ưu tiên đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Ưu tiên đầu tư những dự án quan trọng có hiệu quả, tạo sự đột phá và có tác động lan tỏa tích cực đến thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển của tỉnh, nhất là đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Thứ ba, tập trung thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp chế biến, đẩy mạnh thương mại - dịch vụ, góp phần tiêu thụ sản phẩm.

Để đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi Vĩnh Long thực hiện rất nhiều giải pháp đồng bộ. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, cần chú trọng một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tạo chuyển biến mới trong phát triển kinh tế. Phát huy tiềm năng, lợi thế về sản xuất nông nghiệp và thủy sản, tiếp tục đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả và phát triển bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân, nông thôn. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và công nghệ sau thu hoạch vào sản xuất, quản lý nông nghiệp.

Phát triển công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp, làng nghề gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, đô thị hóa. Củng cố và phát huy hiệu quả các ngành, lĩnh vực công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp theo đề án cơ cấu lại ngành công thương theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời ưu tiên, chọn lọc phát triển các ngành, lĩnh vực phù hợp với thế mạnh, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện thực tế của địa phương nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến từ nguyên liệu của ngành nông nghiệp, thủy sản; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; công nghiệp phụ trợ và công nghiệp sử dụng nhiều lao động để tạo nền tảng, tăng cơ hội tham gia và gia tăng chuỗi giá trị, nâng cao lợi thế cạnh tranh, phát triển theo hướng hiện đại. Chú trọng các ngành công nghiệp tạo ra những sản phẩm cạnh tranh hoặc sử dụng công nghệ tiên tiến, tiêu tốn ít năng lượng và thân thiện môi trường.

Xây dựng, phát triển thương mại - dịch vụ theo hướng hiện đại, thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối và thương mại hàng hóa phát triển trong nước, quốc tế. Huy động, phát huy mọi nguồn lực, tiềm năng để thương mại - dịch vụ trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp hiệu quả vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng, phát triển bền vững. Tập trung phát triển thương mại - dịch vụ theo hướng phát huy lợi thế của thương mại truyền thống với hiện đại. Mở rộng quan hệ hợp tác giữa các thành phần kinh tế, liên kết chặt chẽ với các thị trường trong và ngoài nước cho phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Từng bước tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu để thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, nhất là thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm chủ lực và các mặt hàng nông sản, thực phẩm của địa phương.

Hai là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng đồng bộ. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện khâu đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, bảo đảm hiệu quả tổng hợp, tính kết nối hệ thống, nhất là mạng lưới giao thông, điện, thủy lợi, kết cấu hạ tầng đô thị và hạ tầng công nghệ thông tin. Trước hết, tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nhằm bảo đảm tính đồng bộ, kết nối trong nội bộ ngành, liên ngành, địa phương trong tỉnh và vùng. Lựa chọn một số dự án, công trình quan trọng có sức lan tỏa, tạo đột phá để tập trung đầu tư. Áp dụng đa dạng các phương thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia, tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Tập trung rà soát, điều chỉnh quy hoạch xây dựng nông thôn mới theo hướng nâng cao chất lượng quản lý thực hiện quy hoạch, tăng cường tối đa mọi nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “dân làm, Nhà nước hỗ trợ”. Phát triển sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn, chất lượng, hiệu quả cao. Mở rộng ngành, nghề theo phương châm “ly nông bất ly hương”. Tiếp tục bổ sung, điều chỉnh cơ chế, chính sách của địa phương để huy động tốt hơn các nguồn lực xây dựng nông thôn mới, trong đó luôn bảo đảm tỷ lệ ngân sách đầu tư thỏa đáng cho Chương trình. Nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là xác định, lựa chọn chính xác và kịp thời các vấn đề bức xúc trên từng địa bàn để tập trung chỉ đạo với quyết tâm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ và đột phá trong xây dựng nông thôn mới.

Bốn là, phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề, lấy đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao làm trọng tâm. Chú trọng triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm tạo sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả của giáo dục, đào tạo và dạy nghề theo luật giáo dục nghề nghiệp. Đầu tư thiết bị, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.

Năm là, phát triển y tế, đặc biệt là y tế cộng đồng, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngay từ cơ sở. Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và nâng cao chất lượng dịch vụ. Tạo mọi thuận lợi để người dân được chăm sóc sức khỏe ban đầu và mở rộng cơ hội tiếp cận, sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; từng bước giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và chất lượng dân số. Tập trung huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng mới, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế bảo đảm ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và hiện đại. Phát triển nguồn nhân lực y tế về số lượng, chất lượng và y đức, đáp ứng nhu cầu bổ sung ở tất cả các tuyến theo tiêu chuẩn; chú trọng phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao và nguồn nhân lực phục vụ cho nông thôn. Tăng cường hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, truyền thông, giáo dục sức khỏe, y tế dự phòng, phòng, chống dịch bệnh, tiêm chủng mở rộng, kế hoạch hóa gia đình và sức khỏe sinh sản để nâng cao sức khỏe cho nhân dân./.