Luật Giáo dục nghề nghiệp - Những đổi mới căn bản, toàn diện đáp ứng yêu cầu hội nhập

PGS, TS. Dương Đức Lân Tổng Cục trưởng Tổng cục Dạy nghề
23:46, ngày 31-07-2015

TCCSĐT - Ngày 27-11-2014, Luật Giáo dục nghề nghiệp được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 8 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2015. Luật Giáo dục nghề nghiệp đã thể chế hóa chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nói chung, giáo dục nghề nghiệp nói riêng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa XI; giải quyết nhiều bất cập trong thực tiễn, tạo nên một diện mạo mới cho hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Về tên gọi của Luật

Thực hiện Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày 26-11-2011 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tổ chức xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề. Tuy nhiên, theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được sửa đổi, bổ sung năm 2013, không có thuật ngữ “dạy nghề” mà chỉ có thuật ngữ “giáo dục nghề nghiệp” và “học nghề” (Điều 61 quy định về giáo dục). Như vậy, có thể hiểu việc học nghề, bao gồm cả học nghề ở trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng đều thuộc về giáo dục nghề nghiệp.

Trên thế giới hiện nay thường dùng thuật ngữ “Vocational Education and Training” (VET) với nghĩa “giáo dục và đào tạo nghề”, hoặc “Technical Vocational Education and Training” (TVET) với nghĩa “giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề” và đều được hiểu chung theo nghĩa rộng là “giáo dục nghề nghiệp” (Vocational Education). Luật Giáo dục nghề nghiệp của các nước đều sử dụng thuật nghữ VET hoặc TVET; một số nước (Lat-vi-a, Trung Quốc, Ai-len...) còn sử dụng chính thuật ngữ “Vocational Education” cho tên luật (Vocational Education Law)

Do vậy, để bảo đảm tuân thủ Hiến pháp và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề được đổi tên thành Luật Giáo dục nghề nghiệp (Law on Vocational Education and Training - VET Law).

Về những điểm mới và tiến bộ của Luật Giáo dục nghề nghiệp

Luật Giáo dục nghề nghiệp gồm 8 chương, 79 điều và có nhiều điểm mới, tiến bộ, trong đó có một số điểm mới quan trọng, cụ thể:

Đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp

Theo quy định của Luật Giáo dục năm 2005, giáo dục nghề nghiệp chỉ bao gồm trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong dạy nghề lại có các trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Như vậy, hệ thống giáo dục Việt Nam có 2 trình độ trung cấp, 2 trình độ cao đẳng và do 2 cơ quan quản lý khác nhau. Theo đó, để khắc phục bất cập nêu trên, Luật Giáo dục nghề nghiệp cấu trúc lại hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, làm thay đổi toàn diện cấu trúc hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp mới bao gồm trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp và trình độ cao đẳng.

Đổi mới tên gọi các cơ sở giáo dục nghề nghiệp

Với việc cấu trúc lại hệ thống trình độ đào tạo nên cơ sở giáo dục nghề nghiệp có sự đổi mới, gồm trung tâm giáo dục nghề nghiệp (là sự thống nhất của trung tâm kỹ thuật, tổng hợp, hướng nghiệp và trung tâm dạy nghề), trường trung cấp (là sự thống nhất của trường trung cấp chuyên nghiệp và trường trung cấp nghề) và trường cao đẳng (là sự thống nhất của cao đẳng chuyên nghiệp và cao đẳng nghề) - thực chất là đưa trường cao đẳng chuyên nghiệp tách khỏi giáo dục đại học. Giáo dục đại học chỉ còn trường đại học đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.

Đổi mới tổ chức quản lý, đào tạo

Nếu trước đây, tổ chức đào tạo trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp chỉ có phương thức đào tạo theo niên chế thì bây giờ Luật quy định rõ trong tổ chức quản lý đào tạo có thêm 2 phương thức đào tạo mới. Đó là phương thức đào tạo theo tích lũy mô-đun và đào tạo theo tích lũy tín chỉ. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có quyền lựa chọn phương thức đào tạo theo điều kiện của từng cơ sở.

Theo phương thức đào tạo này, hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ là hệ thống mở, linh hoạt, bảo đảm liên thông thuận lợi giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng nghề hoặc với các nghề khác, hoặc liên thông lên trình độ cao hơn trong hệ thống giáo dục quốc dân. Người học được coi là trung tâm của quá trình đào tạo, được học theo năng lực, điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân, có thể học nhiều nội dung trong cùng thời gian và được công nhận theo hình thức tích lũy các năng lực; người học có thể rút ngắn hoặc kéo dài thời gian học tập phụ thuộc vào năng lực, điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân.

Đổi mới tuyển sinh

Theo quy định hiện hành, cơ sở dạy nghề chỉ được tuyển sinh theo quy mô của từng nghề đào tạo ghi trong giấy chứng nhận đăng ký hoạt động dạy nghề (do cơ quan quản lý có thẩm quyền cấp), không được tuyển vượt. Thậm chí, nếu tuyển vượt 1 chỉ tiêu trình độ cao đẳng nghề thì bị xử lý vi phạm hành chính. Khắc phục bất cập đó, theo Luật Giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục nghề nghiệp được quyền tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh trên cơ sở điều kiện về số lượng, chất lượng đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất và thiết bị đào tạo; được tuyển sinh nhiều lần trong năm; được tổ chức xét tuyển, thi tuyển hoặc kết hợp giữa xét tuyển, thi tuyển.

Đổi mới thời gian đào tạo trung cấp đối với những người tốt nghiệp trung học cơ sở

Thời gian đào tạo trình độ trung cấp đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên chỉ còn từ 1 đến 2 năm học tùy theo nghề đào tạo khi học theo niên chế (theo quy định hiện hành là từ 3 - 4 năm do phải học thêm văn hóa trình độ trung học phổ thông). Đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, nếu có nguyện vọng tiếp tục học lên trình độ cao hơn thì phải tích lũy thêm nội dung văn hóa trung học phổ thông. Đây là nội dung mang tính tự chọn. Như vậy, nội dung văn hóa trung học phổ thông không trở thành nội dung bắt buộc đối với người học như quy định của Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục. Đối với thời gian học theo tích lũy mô-đun, tín chỉ là thời gian tích lũy đủ số lượng mô-đun, tín chỉ quy định cho từng chương trình đào tạo, không phụ thuộc vào số năm học.

Đổi mới chương trình đào tạo

Trước đây theo quy định của Luật Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành chương trình khung đối với từng nghề đào tạo trình độ trung cấp và cao đẳng. Trên cơ sở chương trình khung, các cơ sở dạy nghề ban hành chương trình dạy nghề chi tiết. Theo Luật Giáo dục nghề nghiệp, Nhà nước không ban hành chương trình khung mà giao cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tự chủ xây dựng chương trình đào tạo. Hiện nay, theo Dự thảo, Khung trình độ quốc gia của Việt Nam tương thích với Khung trình độ tham chiếu ASEAN gồm 8 bậc: bậc 1, 2 tương đương ở mức đào tạo dưới 3 tháng (ngắn hạn); bậc 3 trình độ sơ cấp; bậc 4 trình độ trung cấp; bậc 5 trình độ cao đẳng; bậc 6 trình độ đại học, bậc 7 trình độ cao học, bậc 8 trình độ tiến sĩ. Trình độ của giáo dục nghề nghiệp sẽ bao gồm từ bậc 1 đến bậc 5. Theo đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp căn cứ vào chuẩn đầu ra của từng bậc trong khung trình độ quốc gia để xây dựng chương trình đào tạo cho phù hợp.

Đổi mới công tác kiểm tra, thi cử, xét công nhận tốt nghiệp và cấp bằng tốt nghiệp

Theo quy định hiện hành, người học sau quá trình học tập phải thi tốt nghiệp, nếu đạt mới được xem xét công nhận và cấp bằng tốt nghiệp. Với phương thức đào tạo mới, Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định đối với chương trình đào tạo theo tích lũy mô-đun, tín chỉ, nếu người học tích lũy đủ mô-đun, tín chỉ theo quy định của chương trình đào tạo thì được xét công nhận tốt nghiệp và cấp bằng tốt nghiệp, không phải thi tốt nghiệp cuối khóa. Đối với người tốt nghiệp trình độ cao đẳng được cấp bằng cao đẳng và công nhận danh hiệu kỹ sư thực hành hoặc cử nhân thực hành tùy vào ngành nghề đào tạo.

Đổi mới chính sách với người học

Chính sách đối với người học được thể hiện rõ nét trong Luật Giáo dục nghề nghiệp. Đây được coi là một trong những giải pháp thực hiện phân luồng, thu hút người học, tạo sự hấp dẫn đối với người học tham gia giáo dục nghề nghiệp, cụ thể như sau:

Thứ nhất, người học được miễn học phí đối với các đối tượng chính sách xã hội; đối với người học tốt nghiệp trung học cơ sở (lớp 9) khi học trung cấp; đối với những nghề khó tuyển sinh nhưng xã hội có nhu cầu và những ngành nghề đặc thù.

Thứ hai, người học được hưởng chính sách nội trú đối với người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người khuyết tật; người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người khuyết tật có hộ khẩu thường trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo; học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú khi học trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng

Thứ ba, người học sau khi tốt nghiệp được tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập; được hưởng tiền lương theo thỏa thuận với người sử dụng lao động dựa trên vị trí việc làm, năng lực làm việc nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu, mức lương cơ sở hoặc khởi điểm.

Đổi mới chính sách với nhà giáo

Theo quy định hiện hành, nhà giáo dạy nghề không có chức danh, không có thang bảng lương riêng; chính sách tôn vinh, đãi ngộ thiệt thòi... Khắc phục các bất cập đó, Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định về các chức danh đối với nhà giáo trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp, quy định thang bảng lương gắn với chức danh; quy định rõ chính sách tôn vinh (nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú), kéo dài thời gian làm việc với những nhà giáo có trình độ, học hàm, học vị, có tay nghề cao. Nhà giáo dạy thực hành vừa dạy lý thuyết thực hành được hưởng phụ cấp ưu đãi theo quy định của Chính phủ.

Đổi mới chính sách đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp

Theo Luật Giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có thêm một số chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước, như được ưu đãi thuế theo quy định của pháp luật về thuế; miễn thuế đối với phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp để lại cho đầu tư phát triển cơ sở; miễn, giảm thuế theo quy định đối với lợi nhuận thu được từ sản phẩm, dịch vụ được tạo ra từ hoạt động đào tạo; ưu đãi về thuế đối với việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với hoạt động đào tạo, xuất bản giáo trình, tài liệu dạy học, sản xuất và cung ứng thiết bị đào tạo, nhập khẩu sách, báo, tài liệu, thiết bị đào tạo.

Ngoài ra, cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phân biệt công lập hay tư thục, được tham gia đấu thầu, nhận đặt hàng đào tạo của Nhà nước theo quy định của pháp luật về đấu thầu, đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước; được vay vốn ưu đãi từ các chương trình, dự án trong nước và nước ngoài; được tham gia chương trình bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp trong và ngoài nước bằng kinh phí từ ngân sách nhà nước.

Đổi mới chính sách gắn kết cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp

Doanh nghiệp tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp với vai trò là chủ thể có quyền và trách nhiệm như nhau trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp.

Doanh nghiệp được thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp; được tổ chức đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo thường xuyên; được tham gia vào hội đồng trường cao đẳng, trường trung cấp công lập, hội đồng quản trị trường cao đẳng, trường trung cấp tư thục; được tham gia xây dựng danh mục ngành, nghề đào tạo; xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo; tổ chức giảng dạy, hướng dẫn thực tập, đánh giá kết quả học tập của người học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn được phối hợp với các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp để tổ chức đào tạo các trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và các chương trình đào tạo thường xuyên; được thực hiện đào tạo theo đặt hàng của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đặt hàng của Nhà nước,... và được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với toàn bộ chi phí cho hoạt động giáo dục nghề nghiệp.

Chính sách về miễn thuế thu nhập cho doanh nghiệp sẽ là một động lực để doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ hơn với cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Nội dung này không chỉ quy định trong Luật Giáo dục nghề nghiệp mà còn được cụ thể hơn trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế cũng được Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ 8 thông qua và Nghị định số 12/2015/NĐ-CP, ngày 12-02-2015, của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế.

Đổi mới, nâng cao tính tự chủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp

Tự chủ là nội dung đổi mới quan trọng được quy định trong Luật Giáo dục nghề nghiệp. Theo Luật, cơ sở giáo dục nghề nghiệp được nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm hơn so với trước đây, cụ thể:

Thứ nhất, được tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh hằng năm (không phải do Nhà nước cấp trong giấy chứng nhận đăng ký hoạt động).

Thứ hai, tự chủ, tự chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn và duyệt chương trình đào tạo, giáo trình đào tạo.

Thứ ba, tự chủ, tự chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chương trình đào tạo theo niên chế hoặc tích lũy mô-đun hoặc tín chỉ tùy thuộc vào điều kiện của từng cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Thứ tư, được quyền chủ động xây dựng và quyết định mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh theo từng nghề, nằm trong khung học phí, lệ phí tuyển sinh theo quy định của pháp luật; cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện chương trình đào tạo chất lượng cao được thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo.

Thứ năm, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có sử dụng ngân sách nhà nước được quyền quyết định việc huy động vốn, sử dụng vốn, tài sản gắn với nhiệm vụ được giao để mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo; tự chủ, tự chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng tài sản hình thành từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước.

Thứ sáu, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tự chủ về cơ cấu tổ chức bộ máy.

Thứ bảy, cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện; được tuyển dụng, sử dụng, quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân viên, tự quyết định số người làm việc và quyết định trả lương theo hiệu quả, chất lượng công việc.

Đổi mới về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp

Xác định hội nhập là xu thế tất yếu, Luật Giáo dục nghề nghiệp có một mục riêng quy định về hợp tác quốc tế, như: Quy định các hình thức hợp tác quốc tế; liên kết đào tạo với nước ngoài; thành lập văn phòng đại diện của cơ sở nước ngoài tại Việt Nam và văn phòng đại diện của cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam tại nước ngoài; quy định việc công nhận tương đương đối với những người đã tốt nghiệp các trình độ đào tạo nghề nghiệp ở nước ngoài; quy định trình tự, thủ tục công nhận bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp do cơ sở giáo dục nghề nghiệp nước ngoài cấp...

Ngoài những nội dung nêu trên, Luật Giáo dục nghề nghiệp đã quy định về nhiều nội dung quan trọng khác, như đổi mới mục tiêu, đổi mới kiểm định chất lượng đào tạo nghề nghiệp, về chính sách xã hội hóa…

Hội nhập vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với mỗi quốc gia. Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ để tham gia sâu rộng vào sân chơi của các nước trong khu vực và quốc tế. Với Luật Giáo dục nghề nghiệp cùng nhiều nội dung đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và có tính đột phá, giáo dục nghề nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ hội nhập tốt với các nước trong khu vực ASEAN và quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của nhân lực lao động Việt Nam trên trường quốc tế./.