Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Quảng Nam: Nhìn lại sau 12 năm
TCCS - Sau khi được tái lập (năm 1997), Quảng Nam mới chỉ là một tỉnh nông nghiệp thuần túy, nếu không muốn nói là nghèo, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1997 mới chỉ đạt 607,3 tỉ đồng, bằng chưa đầy 1/2 giá trị sản xuất nông nghiệp (1.353,6 tỉ đồng theo giá so sánh năm 1994). Để đánh giá đúng sự cố gắng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Nam trong 12 năm qua phải đặt tỉnh trong bối cảnh cụ thể là một tỉnh duyên hải miền Trung với những khó khăn, thuận lợi về mặt địa lý - kinh tế, văn hóa - xã hội và xuất phát điểm về phát triển.
1 - Những khó khăn và thuận lợi trong chặng đường tiến tới một tỉnh công nghiệp
Khó khăn trước hết phải kể đến đó là điều kiện địa lý - kinh tế và sự khắc nghiệt của khí hậu, thời tiết. Quảng Nam có địa hình dốc, nghiêng từ tây sang đông, hệ sinh thái phân chia rõ rệt là kiểu núi cao phía tây, kiểu trung du ở giữa và dải đồng bằng ven biển. Vùng đồi núi chiếm 72% diện tích tự nhiên. Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, chỉ có 2 mùa là mùa mưa và mùa khô như miền Nam, nhưng lại chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh miền Bắc; mùa mưa trùng với mùa bão, nên các cơn bão thường gây ra lở đất, lũ quét và lụt.
Bên cạnh những khó khăn, thiên nhiên cũng ban tặng cho Quảng Nam nhiều lợi thế. Vùng ven biển phía đông sông Trường Giang là dải cồn cát chạy dài từ Điện Nam, Điện Bàn đến Tam Quang, Núi Thành. Bề mặt địa hình bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi dày đặc, gồm sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ và sông Trường Giang; cùng với 125 km bờ biển, hứa hẹn tiềm năng lớn về du lịch bờ biển, chưa nói tới sự kết hợp giữa du lịch văn hóa với du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng... Ngoài hai di sản văn hóa thế giới là Hội An và Mỹ Sơn, Quảng Nam còn lưu giữ nhiều dấu tích của nền văn hóa Chămpa và được biết đến như là vùng đất “Địa Linh Nhân Kiệt”, quê hương của “Ngũ Phụng Tề Phi”, nơi đã sinh ra nhiều hiền tài cho đất nước. Với đặc điểm này, Quảng Nam là điểm đến hấp dẫn của nhiều khách du lịch thập phương.
Không thể không nói đến điểm xuất phát phát triển quá thấp của Quảng Nam từ sau chiến tranh. Đất Quảng vốn có truyền thống đấu tranh cách mạng anh dũng, kiên cường. Qua 2 cuộc kháng chiến cứu nước, toàn tỉnh Quảng Nam có trên 64.400 liệt sĩ và 7.289 bà mẹ Việt Nam anh hùng, tổng số người có công với cách mạng chiếm trên 20% dân số. Nơi đây đã phải hứng chịu sự tàn phá nặng nề trong suốt những năm chiến tranh. Khí hậu khắc nghiệt cùng với hậu quả chiến tranh nặng nề làm người dân xứ Quảng tuy suốt đời này sang đời khác cần cù lao động, nhưng tỉnh vẫn nằm trong nhóm tỉnh nghèo của miền Trung và có xuất phát điểm kinh tế rất thấp.
2 - Thành quả của những bước đột phá về tư duy phát triển
Trong những năm qua, Đảng bộ Quảng Nam xác định việc phát triển nhanh kinh tế của tỉnh không những là đáp ứng mục tiêu chiến lược của Đảng, mà còn thể hiện một cách thiết thực tình cảm và sự đền đáp những hy sinh xương máu của nhân dân Quảng Nam trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc.
Trong quá trình tìm nguyên nhân, hướng đi đúng cho phát triển kinh tế của tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam đã xác định, nếu chỉ dựa vào sự tích lũy chậm chạp từ phát triển nông nghiệp, đến tiểu, thủ công nghiệp, rồi đi lên con đường công nghiệp hóa thì sẽ rất chậm, lại không tạo được thế “đi tắt, đón đầu” về khoa học, công nghệ và càng tụt hậu xa hơn về kinh tế; cơ cấu kinh tế kém hiệu quả là nguyên nhân trực tiếp và chính yếu. Vì vậy, sau khi tái lập tỉnh, vấn đề phân tích kỹ lợi thế so sánh của địa phương đã được đặt ra. Từ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đến lần thứ XIX, Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam quyết tâm đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, phấn đấu tới năm 2015 phải có cơ cấu kinh tế là: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Sau đó tăng mạnh tỷ trọng và phát triển song song công nghiệp và dịch vụ, đồng thời tạo tiền đề để đưa khối dịch vụ vượt lên hàng đầu vào giai đoạn sau năm 2015; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Đảng bộ Quảng Nam đã tập trung lãnh đạo thực thi những giải pháp cụ thể: Đẩy nhanh tốc độ phát triển các khu, cụm công nghiệp; tăng cường công tác cải cách hành chính; chuẩn bị tốt nguồn nhân lực; cải thiện môi trường đầu tư; xây dựng những sản phẩm công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả. Trong đó, ba lĩnh vực đột phá là xây dựng kết cấu hạ tầng, cải thiện môi trường đầu tư, phát triển nguồn nhân lực được triển khai quyết liệt. Nhiều chủ trương nhằm tạo sự thay đổi căn bản trong phát triển đã được Tỉnh ủy ban hành như: Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 30-4-2003 về Phát triển Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp; Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 25-01-2007 về Phát triển nguồn nhân lực; Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 4-5-2009 về Cải thiện môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở đó, nhiều văn bản pháp lý quan trọng đã được tỉnh ban hành, bước đầu đã tạo được sự đột phá.
Nhờ sự đổi mới tư duy, lựa chọn đúng khâu đột phá, đổi mới cách nghĩ, cách làm, lại có quyết tâm cao, sự đoàn kết, thống nhất của Đảng bộ, lãnh đạo tỉnh trong chỉ đạo, điều hành, phân công trách nhiệm, nên cơ cấu kinh tế của tỉnh đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ, kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá.
Nếu giá trị sản xuất nông nghiệp vào năm 2008 (đạt 1.674,6 tỉ đồng) so với năm 1997 tăng 123,7%, thì tốc độ tăng trưởng về giá trị sản xuất của lĩnh vực công nghiệp và xây dựng năm 2008 (đạt 5.088,6 tỉ đồng) tăng gần 874% so với năm 1997, nghĩa là nhanh gấp gần 8 lần nông nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng từ 69% (năm 2005) lên 75,2% (năm 2008); nông nghiệp từ 31% (năm 2005) giảm xuống còn 24,8% (năm 2008). Trong 6 tháng đầu năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp vẫn tiếp tục tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành công nghiệp có tốc độ tăng khá như: chế biến nông, lâm, thủy sản, thực phẩm, dệt may, da giày, chất khoáng phi kim loại, sản xuất và lắp ráp ô-tô...
Chủ trương xây dựng, phát triển khu kinh tế mở Chu Lai là khu kinh tế mở đầu tiên ở Việt Nam của Bộ Chính trị và Chính phủ là một giải pháp có tính đột phá nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế Quảng Nam theo hướng công nghiệp. Đến cuối năm 2008 đã có 48 dự án được cấp phép với tổng số vốn 824,3 triệu USD, trong đó có 28 dự án đang hoạt động với tổng vốn đăng ký là 355,7 triệu USD, 12 dự án đang triển khai xây dựng. Các dự án lớn đã đi vào hoạt động tại khu kinh tế mở Chu Lai như dự án sản xuất và lắp ráp ô-tô tải, ô-tô du lịch, nhà máy gạch men KEDA, nhà máy sản xuất linh kiện điện tử CCI Việt Nam... Một số dự án đang triển khai xây dựng như nhà máy kính nổi Chu Lai, khu công nghiệp cơ khí ô-tô Chu Lai Trường Hải... Năm 2008 giá trị sản xuất công nghiệp của riêng khu kinh tế mở Chu Lai đã chiếm 13,9% giá trị sản xuất toàn tỉnh, tổng số thu ngân sách phát sinh trên địa bàn là 533 tỉ đồng, chiếm 32% ngân sách toàn tỉnh, hiện thu hút 5.000 lao động và một lượng lớn lao động phổ thông trong lĩnh vực xây dựng. Vừa qua, Ban quản lý khu kinh tế mở Chu Lai đã phối hợp với các ngành chức năng của Trung ương và địa phương tổ chức xúc tiến đầu tư thành công tại Hàn Quốc, qua đó đã kêu gọi được nhiều nhà đầu tư có triển vọng cam kết đầu tư vào Quảng Nam trong thời gian tới.
Ngoài khu công nghiệp Bắc Chu Lai và Tam Hiệp thuộc khu kinh tế mở Chu Lai, Quảng Nam còn đang triển khai 6 khu công nghiệp: Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc (đã cơ bản hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng giai đoạn I, hiện có 38 dự án đang hoạt động, giải quyết việc làm cho trên 16.000 lao động); khu công nghiệp Thuận Yên (đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 7 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký 111,2 tỉ đồng và 2 triệu USD, giải quyết việc làm cho gần 2.000 lao động); khu công nghiệp Đông Quế Sơn (cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 10 dự án, vốn đăng ký 56,9 tỉ đồng và 4 triệu USD, giải quyết việc làm cho gần 1.000 lao động); các khu công nghiệp Phú Xuân, Tam Thăng, Tam Anh đã hoàn thành công tác quy hoạch.
Trong mạng lưới 157 cụm công nghiệp theo quy hoạch, Quảng Nam đã triển khai quy hoạch chi tiết 43 cụm, diện tích 1.170 ha; tỷ lệ lấp đầy 35%; có trên 110 dự án đang hoạt động sản xuất và giải quyết trên 15.000 lao động. Các cụm công nghiệp được triển khai đang hoạt động tốt và thu hút nhiều dự án đầu tư là Trường Xuân (Tam Kỳ), Đại Nghĩa 1 (Đại Lộc), Trảng Nhật 1 (Điện Bàn)...
Toàn tỉnh hiện có 61 làng nghề đang hoạt động với 7 nghìn hộ và cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, hằng năm đóng góp từ 30% - 35% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành. Nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển, thậm chí đã trở thành điểm tham quan du lịch như mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, đồng Phước Kiều, trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa Mã Châu và Duy Trinh.
Quảng Nam có 9 công trình thủy điện vừa, 38 công trình thủy điện nhỏ đang từng bước triển khai, trong đó đáng chú ý là các công trình thủy điện A-Vương 1, Khe Diên, Đại Đồng đã đi vào hoạt động, hòa lưới điện quốc gia, đóng góp tích cực vào tăng trưởng công nghiệp và giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn lao động.
Lĩnh vực dịch vụ phát triển nhanh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, từ 1.214,1 tỉ đồng (năm 1997) đã tăng lên 8.070,9 tỉ đồng (năm 2008).
Đặc biệt, Quảng Nam coi trọng du lịch như một ngành kinh tế mũi nhọn nhằm khai thác tiềm năng rất lớn của tỉnh. Công tác quảng bá du lịch đã có tác dụng thu hút được 183 dự án đầu tư du lịch, trong đó có 21 dự án nước ngoài, 100 dự án đã đi vào hoạt động, 19 dự án đang khởi công xây dựng. Hằng năm tỉnh đón trên 2 triệu khách du lịch trong nước và quốc tế, thu hút lao động trong ngành du lịch tăng từ 1.600 người (năm 2005) lên 5.600 người (năm 2008). Quảng Nam đã có nhiều thương hiệu du lịch cao cấp của các tập đoàn và nhà đầu tư lớn như The Nam Hai của Indochina, Victoria, Golden Sand, Việt Nam Capital... Lễ hội Hành trình di sản là một lễ hội thu hút sự chú ý của khách du lịch quốc tế trong và ngoài nước.
Như vậy, ngành công nghiệp và dịch vụ đã phát triển theo đúng định hướng đề ra nhằm khai thác những tiềm năng, lợi thế của tỉnh, thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, Nhà nước và góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề khác.
Công tác cải cách thủ tục hành chính có sự chuyển biến rõ nét. Năm 2008, chỉ số năng lực cạnh tranh của Quảng Nam đứng thứ 14/63 tỉnh/thành phố trong cả nước.
Quảng Nam lựa chọn định hướng là tỉnh công nghiệp không có nghĩa là xem nhẹ nông nghiệp bởi lĩnh vực này còn có ý nghĩa quan trọng và lâu dài đối với sự ổn định để phát triển, đặc biệt đối với miền núi, trung du và nông thôn. Bởi vậy, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, Quảng Nam chú trọng vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đến nay, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của tỉnh tăng bình quân 2,5%/năm. Giá trị bình quân trên 1 ha canh tác (tính theo giá hiện hành) đạt trên 39,6 triệu đồng (tăng 8 triệu đồng so với năm 2005). Đã hình thành một số vùng nông sản hàng hóa, như: sản xuất lúa gạo chất lượng cao (khoảng 5.000 ha), các vùng chuyên canh rau, đậu, thực phẩm, có vùng đã đăng ký thương hiệu (như rau Trà Quế, dưa hấu Kỳ Lý), ngô, đậu phộng... Quy mô chăn nuôi tăng với tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp là 28,6%. Diện tích và năng suất nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng (khoảng 7.000 ha, trong đó thủy sản nước lợ là 2.000 ha, nước ngọt là 5.000 ha). Kinh tế trang trại được khuyến khích đầu tư, toàn tỉnh đã có 1.200 trang trại, nhiều trang trại đạt hiệu quả kinh tế cao.
Một trong những nét sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp là tỉnh đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chuyển từ 3 vụ sang sản xuất 2 vụ ăn chắc vì vụ thứ 3 thường rơi vào thời điểm mưa bão, hầu hết diện tích canh tác bị thiệt hại nặng nề. Khi chuyển sang làm 2 vụ, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nên sản lượng lương thực không những không giảm mà còn tăng đáng kể. Từ năm 2000, tỉnh đã kiên quyết thực hiện chủ trương đóng cửa rừng, không khai thác gỗ để nâng cao độ che phủ, đồng thời, khuyến khích mọi thành phần tham gia đầu tư trồng rừng nguyên liệu và cây công nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 4 năm 2005 - 2008 đạt 13,5%, cao hơn so với mục tiêu mà Nghị quyết số 08-NQ/TU của Tỉnh ủy đề ra cho giai đoạn 2006 - 2010 (là 11% - 12%). Sáu tháng đầu năm 2009, tuy gặp nhiều khó khăn do tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính - kinh tế thế giới, nhưng kinh tế của tỉnh vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Tổng thu ngân sách nhà nước luôn đạt mức tăng cao, giai đoạn 2003 - 2008 bình quân tăng 22,8%/năm, trong đó thu nội địa tăng 24,1%, thu xuất - nhập khẩu tăng 21,5%. Thu nhập bình quân đầu người được cải thiện đáng kể. Ở thời điểm tái lập tỉnh năm 1997, thu nhập bình quân đầu người đạt 187 ngàn đồng/tháng, đến năm 2008, đạt gần 970 ngàn đồng/tháng.
Kinh tế tăng trưởng đã tạo điều kiện để các vấn đề văn hóa - xã hội của tỉnh phát triển toàn diện. Với truyền thống là đất hiếu học, lại được lãnh đạo các cấp luôn quan tâm đặc biệt đến phong trào học tập của thế hệ trẻ trong tỉnh, nên nếu năm học 2000 - 2001 số phòng học của cả tỉnh là 6.543, thì năm học 2008 - 2009 đã tăng lên 8.150 phòng. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2007 - 2008 đạt 82,14%, cao hơn rất nhiều địa phương khác trong cả nước.
Cơ cấu lao động có bước chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ tăng từ 30,44% năm 2004 lên 34,82% năm 2008 (công nghiệp - xây dựng: 14,03%; dịch vụ: 20,79%); tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 69,56% năm 2004 xuống còn 65,18% năm 2008. Chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh đã có bước cải thiện. Hầu hết đội ngũ lao động ở các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh là người Quảng Nam, kể cả đội ngũ làm công tác quản lý, điều hành và đội ngũ cán bộ kỹ thuật. Tỉnh cũng đã có những cơ chế để đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa của tỉnh, cơ chế đào tạo nghề cho công nhân, đào tạo nghề để chuyển đổi nghề cho nhân dân vùng dự án.
Chương trình xóa nhà tạm, công tác “đền ơn đáp nghĩa”, chăm lo người có công, đối tượng xã hội được thực hiện có hiệu quả. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả tích cực; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn cũ giai đoạn 2001 - 2005 giảm từ 16,98% (năm 2003) xuống còn 9,5% (năm 2005), bình quân giảm 3,74%/năm; và theo chuẩn mới từ 30,29% (năm 2005) giảm còn 23,24% (năm 2008), bình quân giảm 2,35%/năm.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, Quảng Nam vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế: kinh tế tăng trưởng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh, một số lĩnh vực phát triển còn chậm, thiếu bền vững, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Nông nghiệp, nông thôn vẫn còn nhiều khó khăn; công nghiệp, dịch vụ tăng trưởng khá nhưng chưa tạo được bước đột phá. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội ở khu vực nông thôn, miền núi còn hạn chế và thiếu đồng bộ. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tỉnh còn chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai, bão, lụt. Một số mặt của công tác quản lý rừng, tài nguyên, khoáng sản, công tác quy hoạch, quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng, cải cách thủ tục hành chính, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn tồn tại và bất cập.
3 - Tiếp tục tháo gỡ khó khăn, dò tìm giải pháp để phát triển
Tuy khu kinh tế mở Chu Lai được ra đời sớm theo chủ trương của Bộ Chính trị và Chính phủ, nhưng đến nay, cả nước đã hình thành 15 khu kinh tế, tuy không có từ “mở”, nhưng những ưu đãi của tất cả các khu kinh tế đều không khác mấy so với cơ chế đối với khu kinh tế mở Chu lai. Từ năm 2006, Luật Ngân sách được ban hành đã làm thay đổi gần như hoàn toàn những ưu đãi chính đối với Chu Lai. Khu kinh tế mở Chu Lai, nơi đi đầu thử nghiệm những cơ chế, chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, được hy vọng sẽ thu hút mạnh mẽ các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển công nghiệp, dịch vụ, hình thành những sản phẩm công nghiệp chủ lực có trình độ công nghệ hiện đại, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, từ đó trở thành một khu kinh tế phát triển năng động, hiệu quả, là hạt nhân phát triển của tỉnh và của cả vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Nhưng đến nay, khu kinh tế này vẫn phát triển rất chậm chạp vì thiếu sự đầu tư thỏa đáng, cũng như cơ chế chính sách ưu đãi. Chính vì vậy, sự nghiên cứu tổng kết cả về mặt lý luận và thực tiễn là điều hết sức cần thiết.
Quảng Nam đã xác định rõ mục tiêu là phấn đấu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020, phát triển công nghiệp song song với phát triển dịch vụ - du lịch, trong đó, tập trung vào 3 giải pháp chủ yếu: Kết cấu hạ tầng; môi trường đầu tư; nguồn nhân lực nhằm tạo đột phá trong phát triển. Cụ thể là:
Một là, huy động các nguồn lực đẩy nhanh tốc độ xây dựng, phát triển công nghiệp và dịch vụ. Ưu tiên thúc đẩy các dự án lớn, các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ tiên tiến, sử dụng nhiều lao động, ít ảnh hưởng đến môi trường. Khuyến khích đầu tư phát triển các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp ở nông thôn, miền núi. Khôi phục, phát triển các làng nghề gắn với phát triển du lịch. Hoàn thành đề án sắp xếp lại dân cư ven biển; thúc đẩy đầu tư xây dựng khu vực Hội An và vùng ven biển thành trung tâm du lịch lớn của tỉnh và cả nước; đồng thời phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng, thông tin, truyền thông, đào tạo, y tế, bảo hiểm, dịch vụ kỹ thuật... Tăng cường đầu tư hạ tầng kỹ thuật, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ du lịch cùng với công tác quảng bá, xúc tiến du lịch.
Hai là, thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa nông nghiệp - xây dựng nông thôn mới. Hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, các vùng nguyên liệu gắn với đầu tư sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng hóa nông sản. Khuyến khích đầu tư phát triển một số vùng rau quả cao cấp, an toàn cung cấp cho thị trường. Tập trung huy động các nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là giao thông, thủy lợi, các thiết chế văn hóa cơ sở, thực hiện các nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn, miền núi. Tiếp tục triển khai và hoàn thành dự án đường ô-tô đến trung tâm xã, chương trình bê-tông hóa giao thông nông thôn và hoàn chỉnh việc nâng cấp, tu bổ, xây dựng các hồ, đập lớn; sắp xếp, hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thủy lợi để nâng cao hiệu quả sử dụng công trình.
Ba là, tập trung huy động các nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát triển mạng lưới giao thông hoàn chỉnh, hợp lý giữa các vùng lãnh thổ, giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi toàn tỉnh gắn với giao thông của cả nước. Trong đó, tập trung thúc đẩy triển khai thực hiện các dự án hạ tầng quan trọng: Dự án nâng cao năng lực cảng biển Kỳ Hà để tiếp nhận tàu với tải trọng 20.000 tấn; thúc đẩy việc đầu tư, nâng cấp sân bay Chu Lai, đường Nam Quảng Nam, đường Thanh niên ven biển, đường Đông Trường Sơn, đường ĐT 604...
Triển khai đồng bộ công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng giúp đỡ nhân dân trong các vùng tái định cư, đáp ứng yêu cầu tái định cư gắn với sản xuất và bảo đảm ổn định đời sống lâu dài cho nhân dân.
Bốn là, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 15 (khóa XIX) về xây dựng, cải thiện môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh. Định kỳ tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp để tháo gỡ vướng mắc, tạo sự đồng thuận trong quá trình thu hút đầu tư; hỗ trợ thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.
Năm là, tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo tinh thần Nghị quyết của Tỉnh ủy về phát triển nguồn nhân lực. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho nhân dân. Tiếp tục thực hiện xã hội hóa, đa dạng hóa các loại hình đào tạo nghề, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả ở tất cả các loại hình đào tạo. Phát triển dạy nghề gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong từng giai đoạn, từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa tỉnh Quảng Nam./.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư ở Nghệ An  (15/12/2009)
Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội: Thành tựu và những vấn đề đang đặt ra  (15/12/2009)
Nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn  (15/12/2009)
Giới thiệu chính sách mới số 191  (15/12/2009)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm