Quốc hội tiếp tục công tác xây dựng pháp luật

ĐN tổng hợp
22:44, ngày 03-11-2014
TCCSĐT - Ngày 03-11, Quốc hội làm việc tại Hội trường nghe Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế; về dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi); Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi) và Luật Thú y. Quốc hội cũng thảo luận dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hóa công tác quản lý thuế

Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế do Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày nêu rõ mục đích của việc sửa đổi, bổ sung các luật thuế lần này nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tập trung khai thác và tận dụng lợi thế của nền nông nghiệp, góp phần xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh theo hình thức trang trại, khu nông nghiệp công nghệ cao; trong đó Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi để tăng cường sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế; tiếp tục đảm bảo đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hóa công tác quản lý thuế, phù hợp với xu thế cải cách hệ thống thuế...

Bộ trưởng Bộ Tài chính khẳng định trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế-xã hội Việt Nam thì việc sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tài nguyên, Luật Quản lý thuế sẽ đáp ứng được yêu cầu thực tế.

Việc sửa đổi, bổ sung phù hợp với xu hướng phát triển; phù hợp với thông lệ quốc tế đã cam kết, đang đàm phán và đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước; đảm bảo tính nhất quán, ổn định của chính sách; đồng thời cũng đảm bảo tính công bằng, bình đẳng trong ưu đãi đầu tư.

Mặt khác, các nội dung sửa đổi, bổ sung cũng sẽ khắc phục bất cập hiện hành, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, đồng thời đảm bảo chính sách được áp dụng đồng bộ với những quy định của Luật Đầu tư, từ đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo thêm việc làm và tăng thêm thu nhập cho người lao động.

Khi thực hiện dự án luật nêu trên, ước tính tổng số thuế hỗ trợ cá nhân, doanh nghiệp năm 2015 khoảng 3.900-4.000 tỷ đồng và mỗi năm tăng chi khoảng 1.300 tỷ đồng từ Quỹ hoàn thuế để thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng.

Để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước, số thu ngân sách sẽ được bù đắp bằng việc điều chỉnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng thuốc lá, rượu, bia, kinh doanh casino tại dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp này. Cụ thể, theo ước tính, năm 2015 tăng 571 tỷ đồng, năm 2016 tăng 2.773 tỷ đồng, năm 2017 tăng 4.395 tỷ đồng, năm 2018 tăng 6.436 tỷ đồng, năm 2019 tăng 9.312 tỷ đồng; đồng thời khi sản xuất kinh doanh phát triển sẽ tăng thu trong trung và dài hạn.

Chính phủ sẽ chỉ đạo triển khai hiệu quả các luật thuế mới, tăng cường kiểm tra chống thất thu thuế, tăng cường quản lý giá đối với sản phẩm vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi và tổ chức thực hiện thu đối với tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo quy định của Luật Khoáng sản, nhất là đối với những mỏ đã và đang hoạt động (khoảng 1.300 tỷ đồng/năm), đồng thời sẽ điều chỉnh giá bán khí theo giá thị trường đối với sản lượng khí trong bao tiêu để đảm bảo lợi ích của Nhà nước.

Đa số ý kiến của Ủy ban Tài chính-Ngân sách, cơ quan thẩm tra dự án luật, nhất trí với sự cần thiết ban hành luật nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và khắc phục những hạn chế của một số luật thuế và Luật Quản lý thuế.

Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng bốn năm vừa qua, Chính phủ nhiều lần trình Quốc hội ban hành Nghị quyết điều chỉnh các chính sách về thuế, dẫn đến hệ thống pháp luật thiếu ổn định, gây khó khăn cho doanh nghiệp, người dân và các nhà đầu tư.

Ngoài ra, Chính phủ chưa tổng kết, đánh giá tác động của các chính sách này đến nền kinh tế, hệ thống các doanh nghiệp và đời sống của người dân.

Theo Nghị quyết số 57/2013/QH13 của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm 2014, Quốc hội yêu cầu không ban hành, điều chỉnh chính sách làm giảm thu, tăng chi ngân sách nhà nước ảnh hưởng đến cân đối ngân sách nhà nước và an ninh tài chính quốc gia.

Tuy nhiên, ngay trong năm 2014, Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các luật thuế này dự kiến mỗi năm giảm khoảng 5.700 tỷ đồng, hoàn thuế giá trị gia tăng khoảng 1.300 tỷ đồng và xóa nợ tiền phạt chậm nộp thuế khoảng 4.800 tỷ đồng là chưa phù hợp với Nghị quyết của Quốc hội.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

Trình bày Tờ trình về dự án Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình nêu rõ sau hơn 12 năm thực hiện Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, Chính phủ đã tập trung quản lý, điều hành vĩ mô trên các mặt của đời sống kinh tế-xã hội; từng bước xóa bỏ cơ chế chủ quản của các bộ đối với doanh nghiệp; tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ công của các bộ, cơ quan ngang bộ; xây dựng nền hành chính nhà nước thống nhất, thông suốt, liên tục và hiệu lực, hiệu quả từ trung ương đến địa phương.

Chính phủ đã xây dựng và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; khắc phục những chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động của bộ máy nhà nước...

Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 chưa bao quát được hết các chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ trong quá trình điều hành hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.

Các quy định chưa phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước và chưa tương xứng với vị trí, vai trò của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; chưa phân định rõ vị trí, chức năng của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ.

Mối quan hệ giữa Chính phủ với chính quyền địa phương chưa được xác định cụ thể, nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với chính quyền địa phương; chưa thực hiện tốt nguyên tắc cơ quan cấp dưới phải phục tùng sự chỉ đạo, lãnh đạo và các quyết định của cơ quan cấp trên. Hơn nữa, Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều quy định mới về Chính phủ và các thiết chế tổ chức quyền lực nhà nước. Vì những lý do này, việc sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 là cần thiết.

Dự án luật đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013; kế thừa, phát triển và hoàn thiện những quy định của Luật Tổ chức Chính phủ hiện hành đã được thực tiễn kiểm nghiệm là hợp lý và có hiệu quả; luật hóa các vấn đề thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động của Chính phủ mà chưa được pháp luật điều chỉnh.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm tính chủ động, sáng tạo, năng động, linh hoạt để giải quyết kịp thời các vấn đề của thực tiễn cuộc sống, phù hợp với Hiến pháp năm 2013...

Dự thảo Luật kết cấu gồm tám chương, 50 điều.

Cơ bản tán thành với mục tiêu, quan điểm xây dựng Luật, Ủy ban Pháp luật - cơ quan thẩm tra dự án Luật đề nghị Tờ trình cần bổ sung quan điểm xây dựng một Chính phủ sáng tạo, năng động, tinh gọn về tổ chức, hiệu lực, hiệu quả về hoạt động, đủ tầm quản lý, giải quyết các nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và hợp tác quốc tế.

Ủy ban Pháp luật đề nghị dự thảo Luật cần tập trung cụ thể hóa mối quan hệ giữa Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; phân định thẩm quyền của Bộ trưởng với tư cách là thành viên của Chính phủ và Bộ trưởng với tư cách là người đứng đầu ngành, lĩnh vực được phân công quản lý.

Xác định, phân định rõ lĩnh vực quản lý của các bộ, ngành nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót lĩnh vực không có cơ quan quản lý; khắc phục tình trạng đùn đẩy trách nhiệm lên Chính phủ, lên Thủ tướng Chính phủ; xây dựng cơ chế khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện quy định của Hiến pháp về việc người đứng đầu Chính phủ có nghĩa vụ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết.

Bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp

Tờ trình về dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương nêu rõ sau hơn 10 năm thực hiện Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003 (sau đây gọi là Luật năm 2003), hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp đã không ngừng được củng cố và hoàn thiện, cơ bản thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp trong thời gian qua và yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới cho thấy Luật năm 2003 đã bộc lộ những vấn đề cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Đó là quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cơ bản giống nhau ở cả ba cấp, chưa thể hiện tính gắn kết thống nhất giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cùng cấp trong chỉnh thể chính quyền địa phương; chưa phân biệt theo đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo; chưa phân định rõ thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương; một số nhiệm vụ theo luật định, chính quyền cấp xã không có khả năng thực thi.

Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới về chính quyền địa phương; định hướng của Đảng yêu cầu tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân biệt giữa chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo; đẩy mạnh phân cấp giữa Trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương cần được thể chế hóa trong Luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Vì vậy việc xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương để thay thế Luật năm 2003 là cần thiết thiết.

Dự án luật được xây dựng trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa Chính phủ với chính quyền địa phương cấp tỉnh, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc và mối quan hệ công tác của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính bảo đảm gắn kết thống nhất giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cùng cấp trong chỉnh thể chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt; phân định cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền giữa tập thể ủy ban nhân dân và cá nhân Chủ tịch ủy ban nhân dân theo hướng đề cao trách nhiệm người đứng đầu...

Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương điều chỉnh các vấn đề về tổ chức đơn vị hành chính; về mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính; về nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp chính quyền địa phương; về tổ chức, hoạt động của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội và Nhân dân.

Dự án Luật xây dựng hai phương án: Không tổ chức hội đồng nhân dân ở quận, phường; Tổ chức hội đồng nhân dân ở tất cả các đơn vị hành chính.

Theo Tờ trình của Chính phủ, dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định về tổ chức đơn vị hành chính, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã); còn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt do Luật đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt quy định.

Ủy ban Pháp luật là cơ quan thẩm tra có quan điểm, theo quy định của Hiến pháp thì đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt cũng là một loại đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, một số vấn đề có tính nguyên tắc về đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt như điều kiện, trình tự thành lập, giải thể, mô hình tổ chức chính quyền địa phương tại các đơn vị này cần được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương để bảo đảo tính thống nhất.

Còn những nội dung đặc thù về nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế hoạt động cũng như các chính sách ưu đãi đối với các đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt sẽ được quy định ở văn bản khác.

Đánh giá dự thảo Luật vẫn còn nhiều quy định về các trình tự, thủ tục, về hoạt động của chính quyền địa phương, Ủy ban Pháp luật cho rằng Luật tổ chức chính quyền địa phương chỉ nên tập trung quy định những vấn đề về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những nguyên tắc hoạt động chính, còn những vấn đề về trình tự, thủ tục, cách thức hoạt động thì cần được cân nhắc kỹ và chỉ đưa vào luật những quy định thật sự cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Những nội dung cụ thể khác liên quan đến hoạt động của chính quyền địa phương sẽ được quy định trong các văn bản khác. Ủy ban pháp luật đề nghị Chính phủ cần rà soát lại phạm vi điều chỉnh để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật.

Cũng trong ngày hôm nay, Quốc hội đã nghe Tờ trình dự án Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi) và Tờ trình của dự án Luật Thú y. 

Thảo luận Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự

Qua thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, nhiều ý kiến cho rằng việc sửa đổi, bổ sung Luật phải bảo đảm đúng Nghị quyết số 45/2013/QH13 của Quốc hội, cụ thể hóa Hiến pháp 2013 và định hướng cải cách tư pháp. Theo đó, tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết, vướng mắc nhất hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, đề cao trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, Tòa án và các cơ quan liên quan, mà chưa cần thiết phải sửa đổi toàn diện hoặc ban hành Luật Thi hành án dân sự mới.

Dự thảo Luật quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và Chấp hành viên; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động thi hành án dân sự.

Thảo luận về quyền yêu cầu thi hành án (các điều 7, 30, 31) có hai loại ý kiến khác nhau. Có ý kiến đề nghị giữ hai cơ chế như quy định của Luật hiện hành là cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án và ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của đương sự, nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên đương sự (được quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 6 của Luật Thi hành án dân sự), tạo điều kiện để họ lựa chọn về thời gian, phương thức thi hành án; đồng thời làm cơ sở pháp lý cho việc từng bước thực hiện xã hội hóa công tác thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội về tiếp tục thí điểm chế định Thừa phát lại.

Một số ý kiến đề nghị để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án và cụ thể hóa quy định tại Điều 106 Hiến pháp, thì cơ quan có thẩm quyền phải chủ động ra quyết định thi hành án mà không quy định đương sự phải có đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp người được thi hành án từ bỏ quyền lợi hoặc các đương sự thỏa thuận được việc thi hành án thì họ làm đơn đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, ra quyết định chấm dứt việc thi hành án.

Đại biểu Bạch Thị Hương Thủy (Hòa Bình) đề nghị ban soạn thảo cân nhắc lại quy định đương sự phải có đơn yêu cầu thi hành án. Đại biểu phân tích khi bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành, trong trường hợp người phải thi hành án không chấp hành thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng quyền lực buộc thi hành.

Đại biểu nhấn mạnh ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... người dân nhận thức còn hạn chế, đi lại khó khăn, nếu không được tư vấn sẽ không biết quy định phải làm đơn yêu cầu thi hành án. Từ những băn khoăn này, đại biểu đề nghị không cần quy định có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người được thi hành án từ chối hoặc chỉ yêu cầu một phần, hoặc đã tự thỏa thuận thì mới phải làm đơn gửi cơ quan chức năng.

Cùng quan điểm này, đại biểu Tô Văn Tám (Kon Tum) cho rằng quy định này chưa phù hợp với Điều 106 của Hiến pháp quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.”

Như vậy theo quy định này, nếu không có đơn thì cơ quan thi hành án không ra quyết định thi hành, đồng nghĩa với việc bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không được chấp hành, như vậy chưa thực sự bảo vệ quyền lợi của công dân.

Trong Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu ý kiến của nhiều vị đại biểu Quốc hội và Chính phủ thì việc giữ quy định về hai cơ chế ra quyết định thi hành án (chủ động và theo đơn yêu cầu) như Luật hiện hành là phù hợp với tính chất, nguyên tắc tự định đoạt, tự thỏa thuận trong giải quyết các loại việc dân sự, tạo điều kiện, khuyến khích các bên giải quyết việc thi hành án, nhất là đối với trường hợp các đương sự là doanh nghiệp, tổ chức tín dụng... đồng thời bảo đảm cơ sở để thực hiện chủ trương từng bước xã hội hóa công tác thi hành án dân sự.

Ngoài ra, nếu bỏ quy định về đơn yêu cầu thi hành án thì phải mở rộng phạm vi sửa đổi, bổ sung (gồm các điều, khoản có liên quan trong Luật Thi hành án dân sự và sửa đổi cả Luật Trọng tài thương mại và Luật Cạnh tranh), sẽ không phù hợp với yêu cầu đặt ra trong lần sửa đổi này.

Tại phiên thảo luận, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; kiểm sát việc thi hành án; tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên; quyền yêu cầu thi hành án..../.