Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống một cách bền vững

ThS. Trịnh Xuân Thắng Học viện Chính trị khu vực IV
20:37, ngày 02-08-2014

TCCSĐT - Hiện nay, các làng nghề truyền thống gặp không ít khó khăn và thách thức trong bảo tồn và phát triển. Chính vì vậy, tìm các giải pháp thiết thực và hiệu quả để giúp các làng nghề truyền thống vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển và đóng góp cho đất nước là một nhiệm vụ quan trọng.

Lợi ích của việc bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Thứ nhất, bảo tồn và phát triển làng nghề góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân và đất nước

Với hơn 1.200 làng nghề truyền thống đang tồn tại trên khắp đất nước và sự đa dạng các loại ngành nghề khác nhau thì sự phát triển của làng nghề truyền thống sẽ góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho một số lượng lớn lao động. Các làng nghề ở Việt Nam hiện nay đang thu hút khoảng 11 triệu lao động thường xuyên và không thường xuyên. Điều có ý nghĩa quan trọng hơn là làng nghề tận dụng được các loại hình lao động mà các khu vực kinh tế khác không nhận. Nó khắc phục được tình trạng thất nghiệp tạm thời của người dân trong thời gian nông nhàn như nghề đan lát, nghề bó chổi, dệt chiếu…

Làng nghề truyền thống cũng đem lại nguồn thu nhập cao hơn là sản xuất nông nghiệp thuần túy, đặc biệt là khi kết hợp cả sản xuất nông nghiệp và tham gia hoạt động sản xuất của làng nghề thì thu nhập của họ cao hơn hẳn so với chỉ làm nông nghiệp. Thu nhập của người lao động ở làng nghề hiện phổ biến khoảng 600.000 - 1.500.000 đồng, cao hơn nhiều so với thu nhập từ làm ruộng. Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực có làng nghề cũng thấp hơn mức chung của cả nước, chỉ chiếm 3,7% trong khi mức bình quân cả nước là 10,4% (1).

Các làng nghề truyền thống còn đem lại một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước thông qua việc xuất khẩu các mặt hàng này. Nếu như năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ mới đạt 274 triệu USD, thì năm 2006 đã đạt khoảng 650 triệu USD, năm 2007, có 714 triệu USD là xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của làng nghề truyền thống (2). Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ của nước ta đạt từ 1,5 - 1,6 tỷ USD, trong đó chủ yếu được đóng góp từ các làng nghề truyền thống.

Thứ hai, bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn

Các làng nghề truyền thống ra đời trong bối cảnh xã hội nông nghiệp truyền thống, do đó chủ yếu phân bố ở vùng nông thôn và các vùng ven đô. Sự phát triển của các làng nghề truyền thống hiện nay có ý nghĩa rất lớn đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Các làng nghề truyền thống ở vùng nông thôn góp phần phá vỡ thế thuần nông, mở ra khả năng phát triển công nghiệp và dịch vụ một cách hợp lý. Mặt hàng sản xuất của các làng nghề chính là sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, bản thân nó là dạng sơ khai của công nghiệp, đồng thời việc áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và máy móc hiện đại vào quá trình sản xuất rõ ràng sẽ thúc đẩy công nghiệp phát triển. Làng nghề phát triển đã tạo cơ hội cho hoạt động dịch vụ ở nông thôn mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động, đó là các dịch vụ vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt khi phát triển các làng nghề truyền thống gắn với du lịch, đòi hỏi một số dịch vụ của vùng cũng phải phát triển để phục vụ du khách. Đến nay cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề đạt 60% - 80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20% - 40% cho nông nghiệp (3).

Thứ ba, bảo tồn và phát triển làng nghề góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc

Làng nghề truyền thống không chỉ là một đơn vị kinh tế, mà còn là nơi diễn ra các hoạt động sống của cư dân đã quần tụ và gắn bó từ mấy trăm năm nay, thậm chí hàng nghìn năm: “làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần được tồn tại cố định về mặt địa lý, ổn định về nghề nghiệp hay một nhóm các nghề có mối liên hệ mật thiết với nhau để làm ra một sản phẩm, có bề dày lịch sử và được tồn tại lưu truyền trong dân gian” (4). Do đó, làng nghề truyền thống chính là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Những giá trị văn hóa này trước hết thể hiện ở ngay chính những sản phẩm của làng nghề, kết tinh những nguyên liệu truyền thống, những tri thức dân gian của cha ông để tạo ra sản phẩm, những giá trị văn hóa dân tộc và địa phương mà các sản phẩm đó thể hiện. Hơn thế nữa, không gian của làng nghề, đó chính là cảnh quan tự nhiên với những di tích văn hóa, lịch sử, những đền thờ, miếu thờ, nhà thờ tổ nghề, những giếng nước, gốc đa, cổng làng… đều là sự thể hiện các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương, dân tộc. Mỗi làng nghề trong quá trình sống và sản xuất lâu dài của mình đều hình thành nên những phong tục tập quán, những sinh hoạt văn hóa như lễ hội, trò chơi dân gian… đặc trưng của địa phương cũng như của nghề. Bằng việc bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống, nhất là khi làng nghề phục vụ du lịch, tất cả các giá trị văn hóa đặc trưng của địa phương, dân tộc đã được xây dựng và lưu giữ hàng trăm năm, nghìn năm nay sẽ vẫn được tiếp nối trong mạch ngầm của cuộc sống hôm nay, được quảng bá, giới thiệu tới bạn bè quốc tế.

Với những ý nghĩa kinh tế, văn hóa và xã hội to lớn mà các làng nghề truyền thống mang lại như đã phân tích ở trên, rõ ràng bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống một cách bền vững là một việc cần thiết, một hướng đi cần phải quan tâm.

Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập quốc tế, một số làng nghề truyền thống sản xuất các mặt hàng mà thị trường tiêu thụ còn có nhu cầu đã biết phát huy thế mạnh của mình và thích ứng với bối cảnh mới nên vẫn tiếp tục phát triển và thậm chí còn tìm kiếm được nhiều thị trường mới ngoài nước. Ví dụ như một số làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đã có sản phẩm xuất khẩu sang các nước Tây Âu, Mỹ đem lại nguồn ngoại tệ cho đất nước, đồng thời đời sống vật chất và tinh thần của người dân làng nghề đã có bước thay đổi. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, được xuất khẩu trên 163 quốc gia (5). Tuy nhiên, bên cạnh gam màu sáng thì bức tranh làng nghề truyền thống Việt Nam vẫn còn nhiều mảng tối. Theo Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam Vũ Quốc Tuấn, thì trong đó, hiện có hơn 60% số làng nghề đang hoạt động cầm cự, 20% đang thật sự khó khăn và 20% còn lại đã phá sản (6). Còn theo Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thống kê từ 38 tỉnh, thành năm 2009 cho thấy đã có 9 làng nghề bị phá sản, 124 làng nghề khác đang sản xuất cầm chừng (chiếm khoảng 10% tổng số các làng nghề); 2.166 hộ sản xuất làng nghề có đăng ký kinh doanh đóng cửa; 468 doanh nghiệp làng nghề hoạt động cầm chừng (chiếm 16% tổng số doanh nghiệp làng nghề) (7).

Xuất phát từ những khó khăn và thách thức của làng nghề truyền thống trong quá trình cạnh tranh với các mặt hàng công nghiệp trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, vấn đề bức thiết đặt ra là làm thế nào để bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, tiếp tục tồn tại và phát triển.

Giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống một cách bền vững

Thứ nhất, xây dựng quy hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền thống trong phạm vi cả nước

Đây thực chất là tái cơ cấu lại các làng nghề. Tuy quan điểm chung là phải bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống nhưng đối với làng nghề truyền thống sản xuất các mặt hàng mà hiện nay thị trường không có nhu cầu thì cần phải mạnh dạn xóa bỏ và thay thế bằng nghề mới, những làng nghề mà sản phẩm còn phù hợp nhưng bị suy giảm sẽ tập trung đầu tư, hỗ trợ để bảo tồn và khôi phục. Đối với những ngành nghề có tiềm năng phát triển, đang mở rộng thị trường cũng cần có hướng đầu tư phù hợp để nâng cao vị thế và sức cạnh tranh. Việc quy hoạch các làng nghề truyền thống còn xây dựng theo hướng quy hoạch những làng nghề nào chỉ phục vụ sản xuất, những làng nghề nào chỉ phục vụ du lịch và những làng nghề vừa sản xuất vừa phát triển du lịch. Xây dựng quy hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền thống là rất quan trọng vì nó góp phần định hướng hướng phát triển phù hợp cho mỗi làng nghề.

Thứ hai, xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề truyền thống

Nguyên liệu sản xuất của các làng nghề truyền thống chủ yếu là khai thác tự nhiên hoặc các sản phẩm của nông nghiệp. Chính vì vậy, với những nguyên liệu tự nhiên, các làng nghề cần có kế hoạch khai thác hợp lý, hạn chế việc khai thác ồ ạt, có tính chất tận diệt. Đối với những nguyên liệu là sản phẩm nông nghiệp, trong điều kiện diện tích đất phục vụ cho sản xuất nguyên liệu ngày càng hạn hẹp thì đẩy mạnh áp dụng công nghệ hiện đại để tăng năng suất sản xuất nguyên liệu. Các làng nghề tìm kiếm những đối tác sản xuất nguyên liệu, có hợp đồng ký kết ràng buộc với những điều khoản cụ thể, rõ ràng để xây dựng vùng nguyên liệu ổn định về số lượng và giá cả.

Thứ ba, tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm của làng nghề truyền thống

Để giải quyết vấn đề đầu ra cho sản phẩm làng nghề truyền thống thì trước tiên các làng nghề phải tìm cách cải tiến, đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm theo đúng thị hiếu, yêu cầu của thị trường. Để tìm được đầu ra cho sản phẩm thì các làng nghề truyền thống cần phải biết kết hợp một cách hợp lý giữa truyền thống và công nghệ hiện đại, phải áp dụng một phần công nghệ vào một số công đoạn của quá trình sản xuất, đồng thời vẫn phải kế thừa những tri thức dân gian trong quy trình chế tác, vẫn làm bằng tay ở những công đoạn thể hiện sự tinh xảo, nét đặc trưng, độc đáo của sản phẩm để sản xuất sản phẩm nhanh hơn, mẫu mã phong phú hơn, giá thành rẻ hơn nhưng vẫn giữ được nét tinh xảo, đặc trưng truyền thống, chỉ có như vậy thì sản phẩm của các làng nghề truyền thống mới đủ sức cạnh tranh trên thị trường.

Cùng với việc chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm theo nhu cầu, thị hiếu của thị trường thì việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm làng nghề là rất quan trọng để tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chính quyền và các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện giúp đỡ các làng nghề truyền thống đăng ký thương hiệu, bảo hộ sở hữu trí tuệ cho sản phẩm của các làng nghề để chống hàng giả, hàng nhái và điều kiện để các sản phẩm làng nghề có mặt ở những kênh phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm mua sắm. Cùng với đó, các làng nghề cần chú trọng việc khuếch trương thương hiệu, quảng bá thương hiệu tới người tiêu dùng bằng nhiều kênh khác nhau như xây dựng các trang web chuyên giới thiệu về sản phẩm của các làng nghề truyền thống, phòng trưng bày, giới thiệu sản phẩm của các làng nghề truyền thống, tham gia các hội chợ trong nước và quốc tế, tạo điều kiện để sản phẩm làng nghề được tham gia Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

Thứ tư, xây dựng nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống

Chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề, việc tạo ra những sản phẩm có tính đặc trưng, độc đáo với những mẫu mã mới, đa dạng đủ sức cạnh tranh trên thị trường phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, thực tế hiện nay các làng nghề truyền thống đang thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là thợ lành nghề, thợ tạo mẫu. Lao động làng nghề nhìn chung vừa thiếu, vừa yếu, trong khi các nghệ nhân đang già yếu và ngày càng mỏng dần vì tuổi tác thì lực lượng lao động trẻ lại không thiết tha với lao động làng nghề, chính vì vậy sự hẫng hụt nguồn nhân lực kế cận về số lượng cũng như chất lượng ở các làng nghề truyền thống đang trở nên báo động khi 90,4% làng nghề thiếu lao động, chỉ có 9% làng nghề có đủ lao động và 0,6% làng nghề thừa lao động. Số lao động đã qua đào tạo bình quân tại các làng nghề chỉ là 12,3% (8); Sự thiếu về số lượng và kém về chất lượng trong nguồn nhân lực của các làng nghề chủ yếu do thu nhập của người lao động làng nghề còn thấp nên chưa thu hút được nhiều thế hệ trẻ và do hạn chế trong công tác đào tạo nghề tại các làng nghề truyền thống. Việc dạy nghề tại các làng nghề phần lớn theo lối truyền nghề trong các gia đình, cầm tay chỉ việc (78,21%) hoặc tổ chức những lớp học ngắn ngày cho con em trong địa phương (21,4%) (9). Việc truyền nghề trong từng cơ sở sản xuất với số lượng ít, cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo còn đơn giản, thô sơ chưa đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực. Hơn nữa, mỗi nghệ nhân truyền nghề theo một kiểu nên không có sự thống nhất. Cùng với đó là việc không có sách vở nên nếu công việc không ổn định thì nguy cơ bị thất truyền nghề rất cao. Chính vì vậy, để xây dựng được nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng cho các làng nghề truyền thống cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp sau:

Giải quyết những khó khăn của làng nghề truyền thống hiện nay để sản phẩm của làng nghề tìm kiếm được thị trường tiêu thụ, từ đó nâng cao mức thu nhập của người lao động trong các làng nghề là hướng lâu dài để thu hút nhiều lao động trẻ, có tài năng gắn bó với nghề.

Thứ năm, phát triển làng nghề truyền thống gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái

Để phát triển các làng nghề truyền thống một cách bền vững thì phát triển làng nghề cần gắn liền với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên, hiện nay có đến 90% các làng nghề truyền thống đang bị ô nhiễm môi trường (10). Vì vậy, việc phân bố lại địa điểm sản xuất của các làng nghề truyền thống là rất quan trọng để giảm thiểu tác động ô nhiễm môi trường. Đối với những làng nghề ít gây ô nhiễm môi trường như đan lát mây tre thì vẫn có thể sản xuất, kinh doanh ở từng hộ gia đình. Đối với một số làng nghề gây ô nhiễm môi trường trong một số khâu đoạn thì di dời một số khâu trong chuỗi công đoạn sản xuất gây ô nhiễm môi trường tại các làng nghề còn với những làng nghề truyền thống gây ô nhiễm môi trường nặng nề thì hình thành các cụm công nghiệp làng nghề tập trung bố trí ở địa điểm tách biệt với khu dân cư.

Cùng với đó, các cấp chính quyền cần phải có chương trình hỗ trợ một phần xây dựng các công trình xử lý ô nhiễm môi trường cho các làng nghề, trong điều kiện ngân sách hạn chế, cần thực hiện theo phương châm nơi nào đang gây ô nhiễm môi trường nặng nề hơn thì được ưu tiên hỗ trợ trước.

Thứ sáu, phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch để bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống một cách bền vững

Phát triển du lịch làng nghề góp phần bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống một cách bền vững bởi lẽ nó không chỉ giúp mở rộng thị trường, mở ra nhiều cơ hội thuận lợi để thúc đẩy việc phát triển sản xuất các sản phẩm làng nghề truyền thống mà quan trọng hơn nó còn góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong mỗi làng nghề. Tuy nhiên, để các làng nghề truyền thống có thể phát triển du lịch tốt thì lại đòi hỏi một hệ thống các giải pháp đồng bộ với rất nhiều công việc cần phải làm.

Thứ bảy, có chính sách hỗ trợ về vốn, mặt bằng và thông tin để làng nghề tiếp tục phát triển

Có vốn, các cơ sở sản xuất mới có thể đầu tư máy móc mới, áp dụng công nghệ hiện đại cũng như mở rộng quy mô sản xuất. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách thông thoáng để các cơ sở sản xuất có tiềm năng phát triển nhưng thiếu vốn dễ tiếp cận nguồn vốn như có cơ chế cho vay ưu đãi, ưu đãi thuế…

Cùng với vốn, mặt bằng sản xuất cũng đang là một khó khăn mà các làng nghề truyền thống muốn mở rộng quy mô sản xuất đang gặp phải. Vì vậy, Nhà nước cùng cần có cơ chế, chính sách thông thoáng, ưu tiên việc giao đất, ký hợp đồng cho thuê đất cho các cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống.

Bên cạnh việc hỗ trợ về vốn, mặt bằng sản xuất thì việc tạo điều kiện cho các làng nghề tiếp cận được các thông tin về công nghệ, khoa học - kỹ thuật, thị trường để xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hóa hiệu quả đáp ứng yêu cầu của thị trường là hết sức ý nghĩa. Nhà nước có thể khuyến khích và huy động các tổ chức xã hội cùng tham gia cung cấp thông tin cần thiết cho nghệ nhân, chủ sản xuất… trong các làng nghề truyền thống hỗ trợ khả năng, kỹ năng khai thác và xử lý thông tin cho các làng nghề, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các làng nghề tham gia hội chợ, triển lãm, hội thảo… để họ tự tiếp cận thông tin.

Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống là việc làm có ý nghĩa và rất cần thiết. Chính vì vậy, chúng ta tin rằng với sự nỗ lực, cố gắng vươn lên của mỗi làng nghề truyền thống cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ, quan tâm của Nhà nước, chính quyền và các tổ chức xã hội để thực hiện các giải pháp trên, chắc chắn các làng nghề truyền thống sẽ tìm được vận hội mới, nhiều triển vọng để tiếp tục phát triển và khẳng định vai trò của mình trong cuộc sống hiện tại của đất nước./.

--------------------------------------------------------------------------

Chú thích:

(1) http://www.nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/15266902-.html

(2) http://www.nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/15266902-.html

(3) http://www.hoinongdan.org.vn/index.php/moi-truong/6661-chung-tay-%C4%91%E1%BA%A9y-l%C3%B9i-%C3%B4-nhi%E1%BB%85m-l%C3%A0ng-ngh%E1%BB%81.html

(4) Lê Thị Minh Lý (2003): Làng nghề và việc bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể, Tạp chí Di sản văn hóa số 4 -2003

(5) ThS. Nguyễn Thị Thu Hường: Chính sách vốn và đầu tư đối với làng nghề thủ công mỹ nghệ, Tạp chí Tài chính, số tháng 12-2013

(6) http://quangngai.vnet.vn/News/content/viewer.html?a=1493&z=171

(7) www.nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/15266902-.html

(8) http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=74&NewsId=234000

(9) http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=74&NewsId=234000

(10) http://www.hoinongdan.org.vn/index.php/moi-truong/lang-nghe/501-b%C3%A1o-%C4%91%E1%BB%99ng-%C4%91%E1%BB%8F-%C3%B4-nhi%E1%BB%85m-l%C3%A0ng-ngh%E1%BB%81.html