Nông nghiệp hữu cơ
TCCS - Lời Bộ Biên tập: Đáp ứng yêu cầu của đông đảo bạn đọc tìm hiểu về một nền nông nghiệp sạch, chúng tôi giới thiệu những nội dung chủ yếu về vấn đề đó.
Từ năm 1970, khi các quy định về sản xuất hữu cơ được ban hành ở các bang Ô-rê-gôn và Ca-li-for-ni-a của Mỹ, cho đến nay, nuôi trồng bằng công nghệ hữu cơ đã được ứng dụng tại 120 nước trên thế giới. Đặc biệt các trang trại sản xuất hữu cơ phát triển rất nhanh ở châu Âu vào những năm 90 của thập kỷ trước (từ năm 1988 tới năm 1999 tổng diện tích sản xuất hữu cơ tăng tới 46,2%, còn những năm gần đây tổng diện tích sản xuất hữu cơ ở châu Âu tăng trung bình hằng năm khoảng 30%). Xu hướng này hiện cũng đang tăng nhanh tại Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Mỹ La-tinh.
Mỹ, châu Âu và Nhật Bản - 3 trung tâm thương mại lớn nhất của thế giới cũng là những thị trường lớn nhất về sản phẩm hữu cơ và nhu cầu này vẫn không ngừng tăng lên. Năm 2006 thị trường nông sản hữu cơ toàn cầu đạt khoảng 40 tỉ USD, tăng hơn hẳn 10 tỉ USD chỉ so với 1 năm trước đó và ước tính con số này sẽ đạt từ 61 - 94 tỉ USD vào năm 2010.
Vì sao nông nghiệp hữu cơ lại được người sản xuất và tiêu dùng ưa chuộng như vậy?
Nông nghiệp hữu cơ theo định nghĩa của Liên Hợp quốc, là hệ thống canh tác và chăn nuôi tự nhiên, không sử dụng hóa chất làm phân bón và thuốc trừ sâu, giúp giảm thiểu ô nhiễm, bảo đảm sức khỏe cho con người và vật nuôi. Các nông dân canh tác theo hình thức nông nghiệp hữu cơ dựa tối đa vào việc quay vòng mùa vụ, các phần thừa sau thu hoạch, phân động vật và việc canh tác cơ giới để duy trì năng suất đất nhằm cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng và kiểm soát cỏ, côn trùng cũng như các loại sâu bệnh khác. Trong nông nghiệp hữu cơ, nông dân không sử dụng phân bón hóa học và các chất kích thích tăng trưởng, không sử dụng các hóa chất bảo vệ thực vật hoặc các chất diệt cỏ... nông nghiệp hữu cơ cũng từ chối sử dụng các chế phẩm biến đổi gien.
Mục đích hàng đầu của nông nghiệp hữu cơ là dù trong canh tác, chế biến, phân phối hay tiêu dùng đều nhằm duy trì sức khỏe của hệ sinh thái và các sinh vật, từ những sinh vật có kích thước nhỏ nhất sống trong đất đến con người. Vì vậy những nguyên tắc cơ bản trong nông nghiệp hữu cơ được trình bày vào năm 1992 bởi Tổ chức Nông nghiệp hữu cơ quốc tế (IFOAM) là:
- Sản xuất thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, đủ số lượng.
- Phối hợp một cách xây dựng và theo hướng củng cố cuộc sống giữa tất cả các chu kỳ và hệ thống tự nhiên.
- Khuyến khích và thúc đẩy chu trình sinh học trong hệ thống canh tác, bao gồm vi sinh vật, quần thể động thực vật trong đất, cây trồng và vật nuôi.
- Duy trì và tăng độ phì nhiêu của đất trồng về mặt dài hạn.
- Sử dụng càng nhiều càng tốt các nguồn tái sinh trong hệ thống nông nghiệp có tổ chức ở địa phương.
- Làm việc càng nhiều càng tốt trong một hệ thống khép kín đối với các yếu tố dinh dưỡng và chất hữu cơ.
- Làm việc càng nhiều càng tốt với các nguyên vật liệu, các chất có thể tái sử dụng hoặc tái sinh hoặc ở trong trang trại hoặc là ở nơi khác.
- Cung cấp cho tất cả các con vật nuôi trong trang trại những điều kiện cho phép chúng thực hiện những bản năng bẩm sinh của chúng.
- Giảm đến mức tối thiểu các loại ô nhiễm do kết quả của sản xuất nông nghiệp gây ra.
- Duy trì sự đa dạng hóa gen trong hệ thống nông nghiệp hữu cơ và khu vực xung quanh nó, bao gồm cả việc bảo vệ thực vật và nơi cư ngụ của cuộc sống thiên nhiên hoang dã.
- Cho phép người sản xuất nông nghiệp có một cuộc sống theo Công ước nhân quyền của Liên Hợp quốc, trang trải được những nhu cầu cơ bản của họ, có được một khoản thu nhập thích đáng và sự hài lòng từ công việc của họ, bao gồm cả môi trường làm việc an toàn.
- Quan tâm đến tác động sinh thái và xã hội rộng hơn của hệ thống canh tác hữu cơ.
Với những nguyên tắc cơ bản trên, canh tác trong nông nghiệp hữu cơ sẽ có nhiều ích lợi. Rõ ràng nhất là, nó tạo ra được những nông sản phẩm hữu cơ có chất lượng cao và hoàn toàn bảo đảm sức khỏe cho con người. Vì sản xuất theo cách tự nhiên nên nông nghiệp hữu cơ cũng được coi là lành mạnh, giúp giữ độ phì nhiêu của đất, bảo vệ nguồn nước và giảm thiểu ô nhiễm môi trường sinh thái. Ngoài ra, trong xu hướng tự do hóa thương mại toàn cầu với chi phí sản xuất rẻ theo phương thức này, các sản phẩm hữu cơ có thể xuất khẩu với giá cao hơn những nông sản bình thường và vì thế góp phần xóa đói, giảm nghèo cho nông dân, nhất là tại các nước đang phát triển. Như vậy có thể nói, nông nghiệp hữu cơ chính là một nền nông nghiệp bền vững.
Ở Việt Nam, hiện nay, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là mối lo ngại được nhắc tới thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng bởi vấn đề tồn dư thuốc bảo vệ thực vật và hóa chất trong rau do lạm dụng trong canh tác còn khá cao. Trong thức ăn chăn nuôi công nghiệp, hàm lượng độc tố và thức ăn nhiễm vi sinh vật gây bệnh cũng như hàm lượng kim loại nặng như chì, đồng, kẽm cao hơn mức quy định khá nhiều (từ 1,8 đến 5,6 lần). Bên cạnh đó, nông nghiệp Việt Nam còn đứng trước thách thức không nhỏ do ô nhiễm môi trường, đất đai bạc màu, suy giảm đa dạng sinh học, ngộ độc thuốc bảo vệ thực vật, bùng phát sâu bệnh, ô nhiễm nguồn nước...
Để khắc phục tình trạng trên nông nghiệp nước ta đang từng bước chuyển dịch sang nông nghiệp an toàn đó là nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ ở nước ta mới chỉ được phát triển trong vài năm gần đây nên quy mô còn nhỏ bé chỉ mang tính chất thử nghiệm (ở 6 tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Tuyên Quang do Hội Nông dân Việt Nam và Tổ chức Phát triển nông nghiệp Đan Mạch phối hợp thực hiện dự án “Phát triển khuôn khổ cho sản xuất và marketing nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam”). Song với lợi ích của nó, nông nghiệp hữu cơ đã có sức hấp dẫn và rất thu hút được sự quan tâm của người sản xuất và tiêu dùng. Tuy vậy, để nông nghiệp hữu cơ có thể phát triển được ở Việt Nam theo các chuyên gia trong nước và quốc tế cần nhanh chóng xây dựng những tiêu chuẩn về nông nghiệp hữu cơ để chỉ rõ cho người tiêu dùng biết sự an toàn và có lợi cho sức khỏe của loại sản phẩm này. Ngoài ra, Nhà nước cần xây dựng cơ chế hỗ trợ nông dân trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ để họ có thể mở rộng diện tích canh tác, tiếp cận và mở rộng thị trường.../.
Về một chủ nghĩa tư bản mới  (06/02/2011)
Tình huống mới với ẩn số mới  (05/02/2011)
Ngày Xuân thăm Khu Di tích Kim Liên  (05/02/2011)
Dư luận quốc tế về Đại hội XI của Đảng  (05/02/2011)
Thiên tai hoành hành nhiều khu vực trên thế giới  (05/02/2011)
Kiềm chế  (05/02/2011)
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm