TCCS - Đề án “Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg, ngày 29-4-2009, với mục tiêu “Nâng cao chất lượng lao động và tăng số lượng người lao động ở các huyện nghèo tham gia xuất khẩu lao động, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và thực hiện giảm nghèo bền vững”. Đây là một trong số những chính sách của Nghị Quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của người dân ở các huyện nghèo nhất của cả nước, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống giữa các vùng, miền, tiếp tục thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo một cách bền vững.

1 - Sự “ ra tay” của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp

Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các bộ, ngành đã phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phê duyệt kế hoạch triển khai trong 2 năm 2009 - 2010, thí điểm ở 3 tỉnh có huyện nghèo là Thanh Hóa, Yên Bái, Quảng Ngãi với phương châm vừa làm vừa rút kinh nghiệm để từng bước nhân rộng mô hình ra các địa phương khác; chỉ đạo các đơn vị tập trung hỗ trợ doanh nghiệp khai thác hợp đồng, hướng dẫn các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đăng ký tham gia đề án, thẩm định và lựa chọn những hợp đồng tốt để tuyển chọn lao động huyện nghèo. Hiện, có 10 thị trường để lao động các huyện nghèo lựa chọn tham gia. Bộ phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền nhằm chuyển tải kịp thời và đầy đủ chính sách hỗ trợ của Nhà nước đến với người lao động huyện nghèo, bằng nhiều hình thức:

+ Tập huấn nghiệp vụ cho 100% số cán bộ các huyện nghèo; tổ chức hội nghị triển khai tại 62 huyện nghèo.

+ Thực hiện tuyên truyền thông qua các kênh truyền hình trung ương và địa phương, đài phát thanh và báo chí. Xuất bản chuyên trang “Xuất khẩu lao động 62 huyện nghèo”, phát hành miễn phí đến tất cả 893 xã và thị trấn. Hình thức thông tin bằng tờ rơi, áp-phích cũng đã được triển khai đến các huyện, xã, thôn/bản. Đến nay, in và phát hành gần 20.000 tờ rơi và gần 6.000 áp-phích đến 100% số xã thuộc các huyện nghèo.

+ Phối hợp với các bộ, ngành thực hiện đơn giản hóa quy trình thủ tục cho người lao động khi tham gia chương trình.

+ Báo cáo tiến độ thực hiện trong phiên họp thường kỳ của Chính phủ, tổ chức Hội nghị giao ban trực tuyến để kịp thời chỉ đạo việc thực hiện của các địa phương, doanh nghiệp.

Các địa phương đã tích cực phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội triển khai thực hiện nhiệm vụ đến tận các huyện, xã. Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể và doanh nghiệp trong quá trình tư vấn, thông tin tuyên truyền đến người dân các xã thuộc huyện nghèo. Đến tháng 9-2010, toàn bộ 14/20 tỉnh có huyện nghèo trên cả nước đã triển khai công tác xuất khẩu lao động đến các xã thuộc huyện nghèo.

Các doanh nghiệp tham gia coi đây là nhiệm vụ chính trị nên đã tham gia một cách tích cực, tâm huyết. Cán bộ doanh nghiệp đã đi đến những địa bàn khó khăn, trình độ văn hóa và tay nghề của lao động còn thấp, phong tục tập quán lạc hậu, nhận thức xã hội còn nhiều bất cập để tuyển chọn và đưa lao động về các cơ sở đào tạo, trước khi đưa đến các nước tiếp nhận.

Thực tế cho thấy, việc đào tạo cho lao động các huyện nghèo không thể thực hiện đơn thuần như lao động vùng đồng bằng, mà cần thời gian dài hơn, nội dung và phương pháp đào tạo phải được chuẩn bị công phu hơn, kiên trì hơn, thậm chí phải “vừa dạy, vừa dỗ” học viên. Mặt khác, các doanh nghiệp thận trọng trong tìm kiếm, thương thảo, lựa chọn hợp đồng để vừa đáp ứng được yêu cầu của đối tác nước ngoài cả về chất lượng lao động và tiến độ thực hiện, vừa phù hợp với năng lực và đặc điểm của lao động các huyện nghèo.

2 - Những kết quả đạt được sau gần 2 năm triển khai thực hiện

Chính sách hỗ trợ đã tháo gỡ hàng loạt khó khăn, mở ra cơ hội cho người lao động ở huyện nghèo, đặc biệt là người lao động thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số đi làm việc ở nước ngoài - điều mà trước đây họ khó có thể thực hiện được. Đến nay, có trên 30 doanh nghiệp tham gia với gần 60 hợp đồng tuyển chọn lao động cho các thị trường: Li-bi, UAE, An-giê-ri, Đài Loan, Ma-lai-xi-a, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ả-rập Xê-út, Ma Cao, v.v.. Khoảng 8.000 lao động các huyện nghèo đăng ký đi làm việc ở nước ngoài, trong đó có khoảng 400 lao động được sơ tuyển (đáp ứng về sức khỏe và trình độ văn hóa). Sau khi sơ tuyển, các doanh nghiệp đã phối hợp với các địa phương, các cơ sở đào tạo tổ chức dạy nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho khoảng 6.000 lao động.

Về thị trường: Trong số gần 3.500 lao động đã xuất cảnh, thì thị trường Ma-lai-xi-a có 1.700 lao động, chiếm 48,5%; UAE: 550 lao động, chiếm 15,7%; Li-bi: 300 lao động, chiếm 8,57%; Lào: 200 lao động chiếm 5,7%; Ả rập Xê-út: 100 lao động, chiếm 3%.

Một số địa phương đã đưa được nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài như: Thanh Hóa (950 lao động), Quảng Ngãi (800 lao động), Quảng Nam (380 lao động), Quảng Trị (300 lao động), Bắc Kạn (150 lao động), Bắc Giang (120 lao động), Yên Bái (100 lao động), Lào Cai: gần 130 lao động, Điện Biên: khoảng 100 lao động...

Nhìn chung, số lao động này đều có việc làm và thu nhập ổn định, trung bình khoảng 5,5 - 6,5 triệu đồng/tháng ở các thị trường Li-bi, UAE, Ả-rập Xê-út và Ma Cao; từ 4,5 – 5,5 triệu đồng/tháng ở thị trường Ma-lai-xi-a; 15 - 20 triệu đồng/tháng ở các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc.

Về tín dụng ưu đãi: Đến hết 30-8-2010, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân trên 90 tỉ đồng cho khoảng trên 3.000 lao động của hơn 3.000 hộ gia đình thuộc địa bàn các huyện nghèo vay vốn đi xuất khẩu lao động, đạt 60% chỉ tiêu kế hoạch tín dụng năm 2010. Trong đó, hầu hết là người lao động thuộc hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số.

Về kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết: Tính hết tháng 9-2010, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tạm ứng 70% số tiền hỗ trợ cho người lao động huyện nghèo để học nghề, ngoại ngữ, và bồi dưỡng kiến thức cần thiết thông qua các doanh nghiệp và cơ sở dạy nghề trên 25 tỉ đồng.

3 - Những hạn chế, vướng mắc

Sau gần 2 năm triển khai thực hiện, số lao động được đưa đi là quá ít, chỉ đạt 35% so với chỉ tiêu đề ra trong Đề án (2 năm 2009 và 2010 đưa đi 10.000 lao động). Tỷ lệ lao động bỏ về trong thời gian đào tạo khá cao, trung bình khoảng 30 - 35%, cá biệt có địa phương như Đak-rông của Quảng trị, Tân Sơn của Phú Thọ, Mường Nhé của Điện Biên tỷ lệ bỏ về vì nhớ nhà, ý thức kỷ luật kém v.v.., cá biệt có khóa lên tới 60-70%. Tỷ lệ lao động bỏ không xuất cảnh sau khi đào tạo cũng khá cao, trung bình khoảng 15 - 20%, các địa phương Bắc Kạn, Lào Cai, Bắc Giang, Thanh Hóa tỷ lệ này cao hơn nhiều.

Sự phối hợp giữa các đơn vị được giao thực hiện nhiệm vụ chưa thường xuyên. Việc làm chứng minh thư, lý lịch tư pháp thường phải kéo dài thời gian, thủ tục giải ngân của Ngân hàng Chính sách xã hội chưa hợp lý, phải đi lại nhiều lần, đã ảnh hưởng nhiều tới lịch bay của lao động. Do chờ đợi lâu, đi lại nhiều lần, thủ tục phiền hà ... đã khiến nhiều lao động bỏ cuộc.

Lãnh đạo ở một số địa phương chưa nhận thức đúng về trách nhiệm của mình trong việc tổ chức thực hiện chính sách. Có địa phương còn cho đây là việc của các cơ quan trung ương, của doanh nghiệp nên chưa chủ động trong phối hợp, thậm chí còn cản trở doanh nghiệp khi tổ chức triển khai và cản trở lao động khi làm các thủ tục xuất cảnh.

Do tác động của khủng hoảng kinh tế nên số lượng hợp đồng khai thác được chưa nhiều, số hợp đồng tốt, phù hợp với lao động huyện nghèo còn hạn chế. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp chưa xác định được ý nghĩa và trách nhiệm xã hội khi tham gia chương trình nên còn dè dặt, né tránh.

Việc phân bổ kinh phí triển khai từ trung ương xuống địa phương còn chậm, chưa rõ ràng (kinh phí thực hiện Quyết định 71/QĐ-TTg của các địa phương được lồng ghép trong kinh phí thực hiện Nghị quyết 30a), nên nhiều địa phương đã không bố trí kinh phí hoặc bố trí nhưng không đầy đủ và không hướng dẫn nên các đơn vị chuyên môn rất lúng túng khi thực hiện.

Nội dung, chương trình và tài liệu bổ túc kiến thức văn hóa cho lao động huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì biên soạn, vì vậy, đến nay hầu hết các địa phương rất lúng túng, chưa tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ nâng cao trình độ văn hóa cho người lao động v.v..

4 - Mục tiêu và giải pháp

Với mục tiêu phấn đấu hết năm 2010, tổ chức tuyển chọn và đưa khoảng 5 ngàn lao động các huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài. Năm 2011 đưa từ 7 - 8 ngàn lao động các huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài, trong đó phấn đấu đưa khoảng từ 1.500 - 2.000 lao động đi làm việc tại Hàn Quốc và Nhật Bản theo Chương trình EPS và Chương trình IMM, các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Một là, các bộ, ngành tiếp tục nghiên cứu sửa đổi và ban hành các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện các nội dung theo lĩnh vực được phân công. cụ thể là:

- Sớm ban hành nội dung, chương trình và tài liệu bổ túc kiến thức văn hóa cho người lao động được lựa chọn tham gia xuất khẩu lao động nhưng trình độ văn hóa chưa đáp ứng nhu cầu.

- Sửa đổi, bổ sung một số quy trình phân bổ và cấp kinh phí, quy trình hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết theo hướng để địa phương, doanh nghiệp chủ động tạo nguồn, dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động; phối hợp nghiên cứu xây dựng nội dung hướng dẫn lập kế hoạch tuyên truyền nâng cao năng lực, nhận thức về xuất khẩu lao động; phối hợp với Bộ Ngoại giao chỉ đạo các cơ quan đại diện ngoại giao đẩy mạnh hoạt động khai thác thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm hợp đồng, lựa chọn những hợp đồng tốt để đưa lao động các huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện của các doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề từ khâu tư vấn, tuyên truyền, tuyển chọn và đào tạo nghề, ngoại ngữ và quản lý người lao động ở nước ngoài đối với người lao động.

- Bộ Công an nghiên cứu hướng dẫn cơ quan công an địa phương có cơ chế đặc thù đối với lao động thuộc 62 huyện nghèo khi làm chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu theo hướng đơn giản hóa tối đa các thủ tục, giấy tờ, thời gian, địa điểm và hình thức cấp những giấy tờ trên.

- Ngân hàng Chính sách xã hội nghiên cứu sửa đổi quy trình, thủ tục vay vốn phù hợp: Bỏ thủ tục “Tổ TK&VV” họp Tổ để bình xét cho vay và lập danh sách hộ gia đình đề nghị vay vốn trình ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận thuộc đối tượng thụ hưởng chính sách được vay”. Cho phép người lao động mang chứng minh thư nhân dân hoặc sổ hộ nghèo cùng các giấy tờ khác theo quy định như: Giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài ký với doanh nghiệp dịch vụ... trực tiếp làm thủ tục vay vốn.

Hai là, ủy ban nhân dân tỉnh có huyện nghèo tăng cường chỉ đạo việc thực hiện công tác xuất khẩu lao động đến tận cấp xã, thôn/bản, đồng thời chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các huyện, xã, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, kịp thời nắm bắt những vướng mắc, khó khăn để tháo gỡ, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các vi phạm về xuất khẩu lao động trên địa bàn.

Ba là, tiếp tục đổi mới phương pháp, hình thức và nội dung tuyên truyền chính sách, pháp luật của Nhà nước, của địa phương về xuất khẩu lao động đến các xã, thị trấn, thôn, bản, nhất là về lợi ích cũng như những thách thức mà người lao động phải vượt qua. Nhân rộng những mô hình hoạt động hiệu quả của các địa phương, những lao động đi làm việc ở nước ngoài tiêu biểu, mang lại hiệu quả kinh tế, giúp gia đình xóa đói, giảm nghèo v.v..

Bốn là, nghiên cứu, sửa đổi quy trình cấp và phân bổ kinh phí thực hiện tại các địa phương theo hướng cấp trực tiếp kinh phí thực hiện cho địa phương các cấp theo chỉ tiêu và kế hoạch hằng năm. Sửa đổi quy trình tuyển chọn và đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết theo hướng địa phương và doanh nghiệp chủ động phối hợp tạo nguồn và đào tạo lao động xuất khẩu trên cơ sở những định hướng thị trường, ngành nghề đào tạo.

Năm là, đề nghị Chính phủ cho phép mở rộng đối tượng được hưởng các chính sách quy định tại Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2020; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số nội dung hỗ trợ như chi phí y tế cho người lao động trong thời gian tập trung học nghề, ngoại ngữ, giáo dục định hướng, chờ xuất cảnh; điều chỉnh mức chi hỗ trợ cho người làm công tác trực tiếp vận động, tư vấn cho người đi xuất khẩu lao động, v.v.