TCCSĐT - Tại Hội thảo "Triển vọng kinh tế Việt Nam 2014: Cộng hưởng hiệu ứng chính sách" do Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 12-12, việc đánh giá hoạt động của doanh nghiệp trong năm 2013 và đưa ra những dự báo cho năm tới là mảng nội dung quan trọng được đặc biệt tập trung phân tích.

Nền kinh tế không thể khởi sắc khi các doanh nghiệp chưa phục hồi và sản xuất kinh doanh hiệu quả. Năm 2012 là một năm cực kỳ khó khăn đối với các doanh nghiệp. Sang năm 2013, để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, Chính phủ đã ban hành hàng loạt giải pháp, hướng vào ba nhóm cơ bản là: Cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh, tăng cường thu hút đầu tư; hỗ trợ thị trường, giải quyết hàng tồn kho; và tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng và xử lý nợ xấu.

Doanh nghiệp Việt Nam năm 2013: phục hồi mờ nhạt

Bức tranh chung của doanh nghiệp nước ta trong năm 2013 có nhiều gam màu đan xen bởi cả số doanh nghiệp thành lập mới, giải thể và ngừng hoạt động đều tăng. 

Tại Hội thảo, TS. Trần Tiến Cường cho biết, tính chung trong 11 tháng đầu năm 2013, cả nước có 71.018 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 359.470 tỷ đồng (khoảng 15 tỷ USD), tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2012 về số lượng, nhưng giảm 15,4% về số vốn. Điều này thể hiện đã có nhiều nhà đầu tư hơn tham gia vào kinh doanh - những tín hiệu bước đầu phục hồi nền kinh tế. Điểm sáng trong bức tranh doanh nghiệp là số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại hoạt động trong 11 tháng qua là 12.709 doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ, giảm dần trong các khối sản xuất. Điều này cũng phản ánh đúng một thực tế là hầu hết các doanh nghiệp sản xuất đều phải đối mặt với tình trạng hàng tồn kho cao và thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp. Một tín hiệu tích cực nữa là số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu tăng đáng kể từ tháng 9-2013, sau 3 tháng sụt giảm. 

Số doanh nghiệp mới thành lập tăng, nhưng tổng số doanh nghiệp giải thể và tạm dừng hoạt động trong 11 tháng đầu năm 2013 cũng không nhỏ: 54.932 doanh nghiệp (tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2012), trong đó, có 8.857 doanh nghiệp hoàn thành thủ tục giải thể, 46.075 doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động. Số doanh nghiệp giải thể và tạm dừng hoạt động tăng, một mặt, đã làm mất đi một lượng khá lớn việc làm, khiến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, giảm thu nhập hộ gia đình, dẫn đến làm giảm chi tiêu và tác động tới giảm cầu hàng hóa, khiến các doanh nghiệp phải đối mặt với việc thu hẹp thị trường và hàng tồn kho tăng cao, mặt khác cho thấy kinh tế phục hồi chưa rõ rệt.

Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp còn thấp, lợi nhuận giảm, nộp ngân sách giảm. ThS. Nguyễn Huy Hoàng cho biết, trong 9 tháng đầu năm 2013, số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp chỉ chiếm 61,6% kế hoạch của cả năm. Doanh nghiệp nhà nước mới nộp được 34.987 tỷ đồng, bằng 46,5% kế hoạch năm. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong năm 2013 chưa tăng trưởng trở lại nên doanh thu và lợi nhuận không cao, bên cạnh đó, tình trạng “chuyển giá”, “lỗ giả, lãi thật” của một số doanh nghiệp cũng tác động đến việc thu thuế. 

Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp trong năm 2014

Về cơ hội:

Thứ nhất, phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Năm 2013 Việt Nam thành công trong việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô thể hiện qua tỷ lệ lạm phát thấp hơn năm 2012 (ước cả năm 2013 là 6,3-6,3%), tăng trưởng cao hơn năm 2012 (ước đạt 5,4%, năm 2012 là 5,25%), cán cân thanh toán được cải thiện (năm 2011 nhập siêu 9,8 tỷ USD, năm 2012 xuất siêu 750 triệu USD, ước năm 2013 nhập siêu 500 triệu USD, bằng 0,4% kim ngạch xuất khẩu). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) duy trì ở mức không cao, trong khi vốn đầu tư bảo đảm, xuất khẩu tăng trưởng, sản xuất công nghiệp, xây dựng từng bước được phục hồi, các ngành dịch vụ tăng trưởng khá, khu vực nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng ổn định,… là những tín hiệu tốt để hy vọng nền kinh tế sẽ có những khởi sắc hơn trong thời gian tới.

Thứ hai, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay giảm mạnh trong năm 2013 tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn với mức giá hợp lý, mở ra cơ hội cho một bộ phận doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, hoặc không bị vướng vào nợ xấu có thể tiếp cận tín dụng để vượt qua thời kỳ đình trệ, phục hồi sản xuất và phát triển. 

Thứ ba, tốc độ gia tăng nợ xấu đã chậm lại, bình quân trong 9 tháng đầu năm 2013 là 2,2%/tháng so với mức 3,91%/ tháng cùng kỳ năm trước. Một phần nợ xấu xử lý được bằng dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng và thông qua Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Tính đến cuối tháng 11-2013, VAMC đã mua được tổng số dư nợ gốc là 18.398 tỷ đồng. Tình hình tài chính, thanh khoản của các tổ chức tín dụng được cải thiện; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (13,7%) cao hơn nhiều so với quy định (9%). Bà Mai Thị Thu, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia cho rằng, việc các chính sách xử lý hàng tồn kho, nợ xấu ngân hàng đã vượt qua độ trễ và có thể áp dụng trơn tru trong năm 2014 là một trong những yếu tố ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng kinh tế trong năm tới. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng kiên định với các chính sách hỗ trợ sẽ tạo cơ hội lớn cho nhiều doanh nghiệp tăng trưởng, quay trở lại hoạt động, cộng hưởng với cú hích từ gia tăng thương mại và đầu tư nước ngoài.

Thứ tư, kinh tế thế giới tiếp tục đà phục hồi. Theo dự báo của Tổ chức Thương mại thế giới, thương mại quốc tế tăng mạnh với mức 4,5% so với mức 2,5% của năm 2013. Các đối tác thương mại lớn của Việt Nam, như EU, Nhật Bản, Mỹ sẽ khởi sắc do tiêu dùng nội địa và thương mại thế giới tăng. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI toàn cầu được dự báo sẽ tiếp tục phục hồi và dòng vốn FDI vào Việt Nam sẽ tăng mạnh do các đối tác đầu tư hàng đầu của Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng, môi trường của Việt Nam ổn định,…

Thách thức:

Một là, tiến trình tái cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp, tốc độ cải cách doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm và vẫn theo phương cách cũ, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế. Hiện tại, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mới chỉ tác động làm hạn chế một số nhân tố tạo nên sự phát triển theo chiều rộng của doanh nghiệp nhà nước, như thu hẹp số lượng doanh nghiệp và số lượng ngành nghề kinh doanh, còn những nhân tố tác động đến chiều sâu của cải cách vẫn đang gặp trở ngại hoặc bế tắc. Thoái vốn đầu tư ngoài ngành là điểm nghẽn cần tháo gỡ mới có thể thúc đẩy tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, nhưng đây cũng lại là vấn đề rất nan giải. 

Hai là, vẫn còn nhiều “nút thắt cổ chai” để nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, như năng suất, sức cạnh tranh, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, môi trường kinh doanh, tinh thần và động lực kinh doanh, tính sáng tạo và hướng tới giá trị gia tăng của lao động,… Nếu những nút thắt này không được giải tỏa dễ dẫn tới nền kinh tế Việt Nam sẽ “đi ngang” trong nhiều năm. Điều đáng quan tâm là, trong 4 động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng gồm kinh tế nhà nước, khu vực doanh nghiệp tư nhân, nông nghiệp và khu vực doanh nghiệp có vốn FDI, thì 3 động lực “nội” vận hành với tốc độ thấp hơn động lực “ngoại”.

Ba là, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay giảm mạnh trong năm 2013, một phần do người cho vay nhiều, người đi vay ít. Bên cạnh đó, cung - cầu về vốn vay chưa thể gặp nhau bởi doanh nghiệp không đáp ứng đủ tiêu chuẩn do ngân hàng đặt ra, trong khi ngân hàng có thể hạ lãi suất nhưng không thể hạ tiêu chuẩn cho vay. Một lý do quan trọng nữa là, lãi suất giảm chủ yếu là với các khoản cho vay ngắn hạn và tín dụng tiêu dùng trong khi lãi suất trung và dài hạn mà doanh nghiệp muốn tiếp cận lại vẫn ở mức cao. Cơ hội phục hồi kinh doanh dường như chưa mở ra đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu kém, chưa xử lý được nợ xấu,… Tăng trưởng tín dụng 10 tháng đầu năm 2013 chỉ đạt 6,8% - bằng nửa chỉ tiêu đặt ra cho cả năm. Bà Đoàn Thị Quyên (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI) cho biết, theo kết quả một cuộc khảo sát về tình hình doanh nghiệp được thực hiện online và thông qua các chi nhánh, văn phòng đại diện của VCCI trên cả nước, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp 6 tháng đầu năm 2013 được thể hiện như sau: có 32,3% doanh nghiệp vay vốn để thực hiện phương án kinh doanh mới; 30% doanh nghiệp vay vốn để trang trải các chi phí lưu động do khan hiếm tiền mặt và 11,9% doanh nghiệp vay để trả các khoản nợ đến hạn phải trả cho các ngân hàng khác.

Bốn là, tỷ lệ nợ xấu còn cao, tính đến cuối tháng 9-2013 là 4,62%. Việc giải quyết nợ xấu còn gặp nhiều khó khăn, chưa mang tính bền vững, chưa tạo ra tác động đủ lớn để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. 

Năm là, việc thực thi chính sách của các nước, đặc biệt là những đối tác kinh tế lớn của Việt Nam (như gói nới lỏng định lượng 1,4 nghìn tỷ USD của Nhật Bản, chính sách hạ lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung ương châu Âu,…); xu hướng rút vốn trên thị trường tài chính tại các nền kinh tế đang nổi,…sẽ tác động không thuận tới nền kinh tế nhỏ có độ mở lớn như nước ta.

Đối chiếu thực trạng tình hình doanh nghiệp năm 2013 với các nhóm giải pháp của Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp, ThS. Nguyễn Huy Hoàng và nhóm nghiên cứu nhận định rằng, nhóm giải pháp cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh, tăng cường thu hút đầu tư bước đầu phát huy tác dụng cộng hưởng với xu hướng dịch chuyển đầu tư quốc tế làm tăng tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Nhóm giải pháp hỗ trợ thị trường, giải quyết hàng tồn kho phát huy tác dụng chậm; các giải pháp mở rộng thị trường nước ngoài chưa đi vào cuộc sống. Nhóm giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng và xử lý nợ xấu cần được chú trọng hơn để khơi thông nguồn vốn cho doanh nghiệp.

Để doanh nghiệp đón nhận được cơ hội và vượt qua thách thức, rất nhiều kiến nghị đã được nêu ra. Trong phát biểu của mình, bà Đoàn Thị Quyên đề xuất các nhóm giải pháp đối với doanh nghiệp, ngân hàng và Nhà nước. Các doanh nghiệp cần tập trung nâng cao năng lực tiếp cận và mở rộng thị trường; tiếp tục thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp; xây dựng, rà soát và giám sát chặt chẽ các định mức chi phí; chú trọng cân đối dòng tiền, nâng cao thanh khoản; tăng cường liên kết trong kinh doanh; tăng cường năng lực hấp thụ vốn; nâng cao năng lực quản trị rủi ro và quản trị sự bất định để phân tán rủi ro; quan tâm hơn và thường xuyên cập nhật các chính sách mới để tận dụng sự hỗ trợ của Nhà nước; thiết lập chiến lược kinh doanh và có chương trình hành động rõ ràng; thực hiện đổi mới nhân sự vì đây là thời điểm doanh nghiệp dễ tuyển nhân sự nhất mà không cần đào tạo. Các ngân hàng cần đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại các khoản nợ, giải quyết nợ xấu; hình thành các sản phẩm dịch vụ phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ; tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay phù hợp với tình hình lạm phát; tăng dư nợ tín dụng theo kế hoạch, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; đơn giản hóa các thủ tục vay vốn. Về phía Nhà nước, cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn; đẩy nhanh tiến độ triển khai gói hỗ trợ tín dụng nhà ở xã hội, tập trung xử lý nợ xấu bằng mọi biện pháp; tiếp tục thực hiện các giải pháp giãn, hoãn, miễn, giảm thuế; tạo mọi thuận lợi cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển được vay vốn, phát huy hiệu quả Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp; đẩy mạnh và thực thi quyết liệt lộ trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước; triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm giải phóng hàng tồn kho, nợ xấu, đặc biệt là tồn kho và nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản; tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm phát triển thị trường; đẩy mạnh các hoạt động phổ biến thông tin, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường khoa học công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận và chuyển giao công nghệ phù hợp. 

Nhiều ý kiến phát biểu tại Hội thảo cho rằng, với nhiều khả năng được hưởng lợi khi kinh tế thế giới tiếp tục đà phục hồi, nếu các cơ chế, chính sách được thực hiện tốt thì năm 2014 được dự báo là thời điểm các cơ chế, chính sách phát huy tác dụng và tạo hiệu ứng lan tỏa cho toàn bộ nền kinh tế bước vào một chu kỳ tăng trưởng chất lượng cao và bền vững hơn./.