Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính ở Việt Nam thời gian tới
TCCS - Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách hành chính, từ năm 2001 đến nay, Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện hai chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước: Chương trình Tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg, ngày 17-9-2001, và Chương trình Tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 được ban hành tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP, ngày 8-11-2011, của Chính phủ.
Với nỗ lực và quyết tâm cao của Chính phủ, trong hơn 10 năm qua, nền hành chính đã có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả quan trọng.
Về xây dựng thể chế: Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế về kinh tế, tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, hội nhập khu vực, quốc tế và quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các địa phương cũng đã ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để cụ thể hóa các văn bản của Trung ương cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương.
Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo, trong đó trọng tâm là việc thực hiện Đề án Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 - 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 30/QĐ-TTg, ngày 10-1-2007 (gọi tắt là Đề án 30). Việc thực hiện Đề án 30 đã góp phần quan trọng vào việc cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, được nhân dân, doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Kết thúc Đề án 30, cuối năm 2010, Chính phủ đã thông qua 25 nghị quyết về phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính của các bộ, ngành. Tính đến hết tháng 7-2013, các bộ, ngành đã hoàn thành việc đơn giản hóa 3.606/4.751 thủ tục hành chính theo quy định của Chính phủ(1).
Để duy trì kết quả của Đề án 30 và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ngày 8-6-2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính, tạo cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát ngay từ giai đoạn soạn thảo, ban hành cho đến khi thực hiện trên thực tế và lượng hóa được chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính; từ đó, đã hình thành lĩnh vực mới của quản lý nhà nước là kiểm soát thủ tục hành chính.
Để tạo cơ sở pháp lý cho cá nhân, tổ chức trong việc phản ánh, kiến nghị với cơ quan hành chính nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung những vấn đề liên quan đến quy định hành chính, như những vướng mắc cụ thể trong thực hiện, sự không hợp pháp, không hợp lý, không đồng bộ, không thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và những vấn đề khác, ngày 14-2-2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2008/NĐ-CP, về việc tiếp nhận, xử lý phản ánh kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính.
Triển khai Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ chế “một cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương ban hành kèm theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg, ngày 22-6-2007, của Thủ tướng Chính phủ, hiện đã có 686/700 đơn vị hành chính cấp huyện của cả nước thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”. Cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” hiện đại với việc ứng dụng công nghệ thông tin đã được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện, nhất là ở cấp huyện nhằm nâng cao chất lượng phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Đến nay, đã có 203/700 đơn vị hành chính cấp huyện của 42/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang thực hiện cơ chế này. Theo đó, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đã công khai, niêm yết danh mục thủ tục hành chính, hòm thư góp ý, số điện thoại “đường dây nóng”, giúp giải quyết thủ tục hành chính một cách nhanh chóng, minh bạch. Thông qua đó, người dân, cán bộ có thể kiểm tra được quá trình giải quyết thủ tục tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả một cách thuận tiện, đơn giản qua hệ thống máy tính, phần mềm tra cứu thủ tục và thời gian giải quyết hồ sơ.
Để tạo sự đổi mới căn bản về tổ chức, hoạt động quản lý dân cư theo hướng hiện đại, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp; đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm giấy tờ công dân, đặt nền tảng phát triển Chính phủ điện tử, ngày 8-6-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 896/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020”.
Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính: Chính phủ đã điều chỉnh một bước quan trọng về chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ đã được bổ sung, hoàn thiện theo hướng chủ yếu nhằm thực hiện quản lý vĩ mô đối với các ngành, lĩnh vực; trong đó tập trung vào việc xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, hoạch định thể chế, cơ chế, chính sách và hướng dẫn, kiểm tra thực hiện chính sách, pháp luật trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được phân công. Chính phủ đã ban hành và thực hiện có kết quả việc phân cấp Trung ương với địa phương theo Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP, ngày 30-6-2004, của Chính phủ. Cơ cấu của Chính phủ đã được tổ chức lại theo nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực và mỗi việc, mỗi lĩnh vực do một cơ quan của Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất và chịu trách nhiệm chính.
Về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách chế độ công vụ: Công tác quản lý cán bộ, công chức tiếp tục được cải cách theo hướng phân công và phân cấp trong việc quy định trách nhiệm, thẩm quyền quản lý đội ngũ cán bộ, công chức hành chính của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ, ngành và chính quyền địa phương. Đã có sự thay đổi quan trọng trong việc tuyển dụng công chức và việc thi nâng ngạch đối với chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và các ngạch tương đương. Để xây dựng một nền công vụ “Chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả”, ngày 18-10-2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1557/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”, trong đó có những nội dung mang tính đột phá trong xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức từ Trung ương đến cơ sở.
Về cải cách tài chính công: Cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách đã có những đổi mới quan trọng. Theo đó, Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) quy định ngân sách nhà nước gồm 2 cấp và đổi mới phân cấp ngân sách theo hướng tăng tính chủ động, thẩm quyền và trách nhiệm cho các bộ, ngành, địa phương.
Việc thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, ngày 17-10-2005, đã nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị và tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức trong sử dụng biên chế, kinh phí.
Việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày 25-4-2006, đã tạo điều kiện cho đơn vị sự nghiệp kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo của người lao động; nâng cao kỹ năng quản lý, từng bước giảm sự can thiệp của cơ quan quản lý cấp trên; công khai, minh bạch trong phân công thực hiện nhiệm vụ, công tác nhân sự, chi tiêu tài chính.
Việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP, ngày 5-9-2005 và Nghị định số 96/2010/NĐ-CP, ngày 20-9-2010 của Chính phủ đã tăng cường trách nhiệm, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của thủ trưởng đơn vị khoa học và công nghệ, tạo điều kiện phát huy tiềm lực, gắn kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với sản xuất, kinh doanh, đào tạo nhân lực, thu hút nguồn lực của xã hội cho hoạt động khoa học và công nghệ và đầu tư có trọng điểm.
Nhằm nâng cao chất lượng quản lý tài chính công, Bộ Tài chính đã xây dựng và triển khai Hệ thống Thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (TABMIS). Đây là hệ thống thông tin cốt lõi của ngành tài chính, là một cấu phần chính trong Dự án Cải cách quản lý tài chính công của Chính phủ. Mục tiêu đến năm 2015, TABMIS được triển khai tới 100% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Việc triển khai TABMIS đến tất cả các sở tài chính, kho bạc nhà nước trên toàn quốc sẽ góp phần quan trọng vào công tác quản lý ngân sách nhà nước từ khâu lập kế hoạch, thực hiện, báo cáo ngân sách và tăng cường trách nhiệm ngân sách của sở tài chính, nâng cao tính minh bạch trong quản lý tài chính công, hạn chế tiêu cực trong sử dụng ngân sách, bảo đảm an ninh tài chính trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.
Về hiện đại hóa nền hành chính nhà nước: Hơn 10 năm qua, các bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều hành và cung cấp dịch vụ cho người dân, tổ chức và doanh nghiệp; tạo nền tảng cho việc xây dựng Chính phủ điện tử. Hệ thống hội nghị truyền hình phục vụ Chính phủ được xây dựng và đưa vào vận hành từ tháng 3-2009, với quy mô 64 điểm cầu, gồm điểm cầu chính tại Văn phòng Chính phủ và 63 điểm cầu tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Chỉ tính trong hai năm 2011 và 2012, hệ thống này đã phục vụ trên 300 cuộc họp của Chính phủ, Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ với các tỉnh, thành phố; các cuộc họp của các bộ, ngành ở Trung ương với ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các sở, ban, ngành trên cả nước. Ở các địa phương, đã có 29 tỉnh, thành phố triển khai hệ thống họp trực tuyến nội tỉnh đến cấp quận, huyện.
Đến nay, 22 bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử. Trong tổng số các dịch vụ công trực tuyến được cung cấp tại các bộ, cơ quan ngang bộ, các dịch vụ công trực tuyến mức độ 1, mức độ 2 chiếm tỷ lệ là 99%, số lượng các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 mới là 34 dịch vụ (chiếm 1%)(2).
Các bộ, ngành triển khai thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao, như Bộ Thông tin và Truyền thông cung cấp 05 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3; Bộ Công Thương cung cấp 02 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; Bộ Tài chính cung cấp 01 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các dịch vụ công trực tuyến được cung cấp ở mức độ 1, mức độ 2 chiếm tỷ lệ 99,1%, số lượng các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 là 837 dịch vụ (chiếm tỷ lệ 0,9%). Một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiêu biểu trong việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao phục vụ người dân và doanh nghiệp, như An Giang cung cấp 139 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3; Bình Phước cung cấp 99 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3; Bà Rịa - Vũng Tàu cung cấp 47 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3; Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp 4 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý thuế cũng mang lại những kết quả tích cực. Bộ Tài chính đã xây dựng Kho Dữ liệu người nộp thuế, gồm trên 3 triệu đối tượng nộp thuế là doanh nghiệp, khoảng gần 13 triệu đối tượng nộp thuế cá nhân và hàng trăm chỉ tiêu quản lý được cập nhật hằng ngày. Hệ thống kê khai thuế qua mạng cho phép cá nhân, tổ chức kê khai qua mạng in-tơ-net tiết kiệm được thời gian, nhân lực, chi phí của các đối tượng nộp thuế. Hiện có hơn 130.000 doanh nghiệp kê khai thuế qua mạng với tổng số tờ khai điện tử đã tiếp nhận và xử lý lên tới hơn 2,4 triệu tờ khai.
Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 (Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg, ngày 20-6-2006, của Thủ tướng Chính phủ) và tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 (Quyết định số 118/2009/QĐ-TTg, ngày 30-9-2009, của Thủ tướng Chính phủ) vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đã đạt được những kết quả khả quan, như đã xây dựng được các quy trình giải quyết công việc một cách khoa học; từng bước cải tiến phương pháp làm việc, tạo điều kiện thuận lợi cho từng cán bộ, công chức giải quyết công việc thông suốt, kịp thời, hiệu quả; đơn giản hóa quy trình và rút ngắn thời gian giải quyết công việc của doanh nghiệp, địa phương, cơ sở; giảm tác động tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức khi giải quyết các thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân; chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý và cung cấp dịch vụ hành chính công được nâng cao; từng bước tạo được lòng tin và sự hài lòng của người dân trong giao dịch với cơ quan hành chính nhà nước.
Những thành quả của công tác cải cách hành chính nhà nước trong hơn 10 năm qua đã góp phần quan trọng vào sự thành công của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền của đất nước và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, việc thực hiện các chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước trong những năm qua vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Trong cải cách thể chế, số lượng văn bản được ban hành nhiều nhưng chất lượng chưa cao, không khả thi, thiếu thống nhất, mâu thuẫn, chồng chéo. Thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; việc giải quyết thủ tục hành chính chưa tốt đã gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp. Trong việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” vẫn còn thiếu đồng bộ, gây phiền hà cho tổ chức, công dân. Số lượng các tổ chức bên trong các bộ, ngành ở Trung ương và các sở tăng khá nhiều, đặc biệt là các tổng cục, cục trong bộ và các chi cục thuộc sở. Số lượng các đơn vị hành chính gia tăng đáng kể qua hơn 10 năm, làm tăng số lượng cán bộ, công chức, viên chức của các đơn vị hành chính mới. Chủ trương giảm biên chế không đạt được yêu cầu đã đề ra. Việc đánh giá cán bộ, công chức còn chung chung, hình thức, chưa có tiêu chí phân loại cụ thể, rõ ràng. Tiền lương còn thấp dẫn đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức gặp nhiều khó khăn. Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức tuy đã được nâng lên nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển đất nước; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, cửa quyền, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân, của xã hội.
Để thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, cần làm tốt những công tác sau:
Thứ nhất, các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Chỉ thị số 07/CT-TTg, ngày 22-5-2013, của Thủ tướng Chính phủ, về việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Trong đó, tập trung vào cải cách thể chế với vai trò là một trong ba trọng tâm của cải cách hành chính trong giai đoạn 2011 - 2020; chú trọng việc nâng cao chất lượng hoạch định, ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, khẩn trương hoàn thành việc xác định và công bố Chỉ số cải cách hành chính năm 2012 của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và triển khai phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Chú trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức chuyên trách cải cách hành chính.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, tập trung triển khai dứt điểm các phương án đơn giản hóa thủ thủ tục hành chính theo 25 nghị quyết của Chính phủ và thực hiện các nhiệm vụ về cải cách thủ tục hành chính thuộc các đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Sớm kiện toàn bộ máy làm công tác cải cách thủ tục hành chính theo Nghị định số 48/2013/NĐ-CP, ngày 14-5-2013, của Chính phủ và Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 15-6-2013, của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục triển khai thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính.
Thứ tư, tiếp tục triển khai có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP, ngày 5-9-2005, của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập, Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, ngày 17-10-2005, của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày 25-4-2006, của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị định số 96/2010/NĐ-CP, ngày 20-9-2010, của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP, ngày 5-9-2005, của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP, ngày 19-5-2007, của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Thứ năm, khẩn trương triển khai việc xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu công chức, viên chức tại tất cả các bộ, ngành, địa phương. Bộ Nội vụ, các bộ quản lý ngành, lĩnh vực cần tập trung hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, chức danh ngạch công chức, hệ thống tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp viên chức, tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý. Nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy chế, nội quy, pháp luật trong hoạt động công vụ.
Thứ sáu, tiếp tục nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện phần mềm và nhân rộng việc áp dụng hình thức thi tuyển trên máy vi tính nhằm nâng cao chất lượng tuyển dụng công chức, bảo đảm khách quan, công bằng để lựa chọn được cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất. Đổi mới phương thức tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng theo hướng bảo đảm tuyển chọn được người có đức, có tài trong hoạt động công vụ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ.
Thứ bảy, tiếp tục thực hiện tốt quy định về tinh giản biên chế; kiên quyết thực hiện chính sách tinh giản biên chế gắn với công tác đánh giá để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; thực hiện nguyên tắc số công chức được tuyển dụng mới vào công vụ không quá 50% số công chức đã ra khỏi biên chế; 50% số biên chế còn lại để bổ sung cho những lĩnh vực cần tăng hoặc tổ chức được giao nhiệm vụ mới.
Với quyết tâm chính trị cao của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, chắc chắn công cuộc cải cách hành chính sẽ có những chuyển biến tích cực hơn trong thời gian tới, góp phần xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, phấn đấu đạt được các mục tiêu mà Chương trình Tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 đã đề ra./.
---------------------------------------------
(1) Báo cáo số 174/BC-BTP, ngày 30-7-2013, của Bộ Tư pháp
(2) Việc phân loại mức độ dịch vụ công trực tuyến được thực hiện theo quy định tại khoản 4, Điều 3, Nghị định số 43/2011/NĐ-CP, ngày 13-6-2011, của Chính phủ về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước
Tuần tin cải cách hành chính từ ngày 25-11 đến ngày 01-12-2013  (03/12/2013)
Mít tinh kỷ niệm 105 năm ngày sinh đồng chí Ngô Gia Tự  (03/12/2013)
Mít tinh kỷ niệm 105 năm ngày sinh đồng chí Ngô Gia Tự  (03/12/2013)
Văn phòng Chính phủ: Họp báo thường kỳ tháng 11-2013  (02/12/2013)
Kỷ niệm 111 năm ngày sinh nhà yêu nước Nguyễn Thái Học  (02/12/2013)
2014: Các mức viện trợ dành cho Việt Nam sẽ không giảm  (02/12/2013)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên