Chiều 5-7, Văn phòng Chủ tịch nước đã tổ chức họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước về việc công bố 5 Luật và 1 Nghị quyết của Quốc hội được thông qua tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII.

5 luật và 1 Nghị quyết được công bố chiều 5-7 là các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cư trú; Luật sửa đổi, bổ sung Điều 170 của Luật doanh nghiệp; Luật hòa giải ở cơ sở và Nghị quyết kéo dài thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối của hộ gia đình, cá nhân.

Từ 1-1-2014, thuế suất phổ thông là 22%

Để thực hiện Chiến lược cải cách thuế đến năm 2020 làm giảm dần mức động viên, khoản 6, Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy định từ 11-2014, áp dụng mức thuế suất phổ thông là 22%, doanh nghiệp có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng được áp dụng thuế suất phổ thông 20% kể từ 1-7-2013. Từ ngày 1-1-2016, mức thuế suất phổ thông là 20% và mức thuế suất ưu đãi 20% được giảm xuống còn 17% (Khoản 7 Điều 1).

Nhằm đảm bảo sự nhất quán với Luật Đầu tư và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, tại Khoản 7, Khoản 8 Điều 1, Luật sửa đổi quy định đối tượng hưởng ưu đãi thuế là doanh nghiệp, căn cứ ưu đãi thuế theo dự án đầu tư của doanh nghiệp và bổ sung thêm lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn ưu đãi.

Góp phần hỗ trợ giảm khó khăn cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư - kinh doanh nhà ở xã hội trong bối cảnh kinh tế khó khăn, thị trường bất động sản đóng băng, hàng tồn kho nhiều, Luật sửa đổi, bổ sung quy định áp dụng kể từ ngày 1-7-2013 hai giải pháp chính sách ưu đãi thuế gồm: quy định doanh nghiệp có tổng doanh thu năm dưới 20 tỷ đồng được áp dụng thuế suất 20% và quy định áp dụng thuế suất 10% đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư - kinh doanh nhà ở xã hội. Luật có hiệu lực thi hành từ 1-1-2014.

Áp dụng thuế suất 5% đối với nhà ở xã hội từ 1-7-2013

Trao đổi về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Vụ trưởng Vụ Chính sách Thuế (Bộ Tài chính) Ngô Hữu Lợi cho hay, theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 thì nội dung cải cách thuế suất thuế giá trị gia tăng là giảm bớt nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 5%; nghiên cứu đến năm 2020 áp dụng cơ bản một số mức thuế suất (ngoài mức 0%).

Để khắc phục các vướng mắc trong thực tế và phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật bổ sung quy định áp dụng thuế suất 5% đối với việc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội từ 1-7-2013.

Nguyên tắc xác định hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu áp dụng thuế suất 0% là hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng ở ngoài Việt Nam, tiêu dùng trong khu phi thuế quan và hàng hóa, dịch vụ được cung cấp cho khách hàng nước ngoài theo quy định của Chính phủ.

Ngoài ra, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Luật còn bổ sung quy định khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào không được bồi thường của hàng hóa, dịch vụ bị tổn thất; bỏ khống chế thời hạn được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào tối đa là 6 tháng trong trường hợp có sai sót kể từ tháng phát sinh hóa đơn.

Theo đó, doanh nghiệp được kê khai bổ sung vào bất kỳ thời điểm nào trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra, thanh tra thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế; bỏ quy định thuế giá trị gia tăng đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và không chịu thuế giá trị gia tăng được khấu trừ toàn bộ để đảm bảo nhất quán với nguyên tắc chỉ khấu trừ giá trị gia tăng đầu vào sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng….

Đặc biệt, để góp phần chống gian lận trong hoàn thuế giá trị gia tăng, Luật sửa đổi quy định về hoàn thuế do 3 tháng liên tục có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa khấu trừ hết được chuyển trừ vào số thuế phải nộp của các kỳ tiếp theo và sau tháng thứ 12 hoặc quý thứ 4 mà vẫn còn số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa khấu trừ hết thì được hoàn thuế. Luật cũng quy định giải pháp giảm 50% mức thuế suất 10% thuế giá trị gia tăng từ ngày 1-7-2013 đến hết ngày 30-6-2014 đối với bán, cho thuê, thuê mua nhà ở thương mại là căn hộ hoàn thiện có diện tích sàn dưới 70m2 và có giá bán dưới 15 triệu đồng/m2.

Luật chính thức có hiệu lực từ ngày 1-1-2014, trừ một số điều khoản quy định cụ thể về bán, cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội và nhà ở thương mại.

Sửa Điều 170 Luật Doanh nghiệp để gỡ khó cho doanh nghiệp FDI

Liên quan đến Luật sửa đổi bổ sung Điều 170 của Luật Doanh nghiệp, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông cho hay: việc sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 170 Luật Doanh nghiệp nhằm thực hiện những mục tiêu chủ yếu như tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì hoạt động, đặc biệt là các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, kinh doanh ổn định, có lực lượng lao động gắn bó lâu dài, đóng góp cho xã hội và ngân sách nhà nước.

Việc sửa luật cũng tạo cơ sở pháp lý để khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đăng ký lại thực hiện dự án đầu tư mới và đầu tư mở rộng tại Việt Nam. Luật quy định bãi bỏ thời hạn đăng ký lại quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 170 Luật doanh nghiệp để cho phép doanh nghiệp chưa đăng ký lại lựa chọn thực hiện thủ tục đăng ký lại vào thời điểm thích hợp trước khi kết thúc thời hạn hoạt động quy định tại Giấy phép đầu tư.

Luật sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1-8-2013 và để hướng dẫn thực hiện các quy định sửa đổi, bổ sung tại Luật này, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 101 của Chính phủ ngày 21-9-2006 quy định việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi Giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Hiện, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang triển khai xây dựng Nghị định này để trình Chính phủ ban hành ngay sau khi Luật có hiệu lực thi hành - Thứ trưởng Đặng Huy Đông cho biết.

Mở rộng diện được đăng ký thường trú vào thành phố trực thuộc Trung ương

Đây là nội dung quy định tại Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cư trú. Luật quy định các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm: thuê, cho thuê, làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác có liên quan đến cư trú; sử dụng giấy tờ giả về cư trú; cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về cư trú; giả mạo điều kiện để được đăng ký thường trú; đồng ý cho người khác đăng ký cư trú vào chỗ ở của mình để vụ lợi hoặc trong thực tế người đăng ký cư trú không sinh sống tại chỗ ở đó.

Theo Trung tướng Phạm Quý Ngọ, Thứ trưởng Bộ Công an, để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân đang cư trú tại thành phố, làm chậm tốc độ tăng dân số cơ học, giảm sức ép về các vấn đề xã hội liên quan, Khoản 2 Điều 1 của Luật đã quy định tăng thời gian tạm trú để được đăng ký thường trú vào quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương từ 1 năm lên 2 năm.

Để tạo thuận lợi và bảo đảm quyền cho công dân, Luật cũng đã mở rộng một số đối tượng có quan hệ họ hàng thân thích về ở với nhau thì được đăng ký thường trú vào thành phố trực thuộc Trung ương khi được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình.

Đối với trường hợp đăng ký thường trú vào chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân, tổ chức, Luật đã bổ sung một số điều kiện chặt chẽ hơn để khắc phục tình trạng nhiều hộ, nhiều người nhập hộ khẩu vào một chỗ ở quá chật hẹp.

Luật chính thức có hiệu lực từ ngày 1-1-2014.

Bảo đảm tính linh hoạt trong hoạt động hòa giải

Luật hòa giải ở cơ sở quy định nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở, hòa giải viên, tổ hòa giải; hoạt động hòa giải ở cơ sở; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong công tác hòa giải ở cơ sở... Hoạt động hòa giải của tòa án, trọng tài, hòa giải thương mại, hòa giải lao động và hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật.

Điều 3 của Luật quy định việc hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải; vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính; mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo quy định pháp luật.

Để bảo đảm cho hoạt động của tổ hòa giải và hòa giải viên, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở; đồng thời phù hợp với tính chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự nguyện, tự quản của cộng đồng dân cư, Điều 6 Luật quy định Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở. Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.

Chương III của Luật đã bổ sung, quy định rõ hơn quy trình hòa giải, bảo đảm tính linh hoạt trong hoạt động hòa giải, phát huy vai trò chủ động của hòa giải viên. Luật gồm 5 chương, 33 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2014.

Kéo dài hạn sử dụng đất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối

Theo Nghị quyết kéo dài thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối của hộ gia đình, cá nhân đã được Quốc hội quyết nghị, khi hết thời hạn sử dụng, Nhà nước không điều chỉnh lại đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối đã giao cho hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai hiện hành.

Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được tiếp tục sử dụng đất cho đến khi Luật đất đai (sửa đổi) được ban hành và có hiệu lực thi hành. Khi đó, thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối của hộ gia đình, cá nhân áp dụng theo quy định của Luật đất đai sửa đổi. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ 1-10-2013./.