TCCSĐT - Trong giai đoạn hiện nay, việc ứng dụng công nghệ cao (CNC) trong sản xuất nông nghiệp là hết sức cần thiết, nhằm xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp tiên tiến, bền vững. Song, do đặc điểm của Việt Nam là một đất nước mà đại bộ phận người dân chủ yếu sinh sống bằng nghề nông với tập quán canh tác nhỏ, lạc hậu, nên để có thể chuyển giao, ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ (KH - CN) vào đồng ruộng nhằm phát triển nền nông nghiệp CNC cần thay đổi thói quen, tập quán canh tác lạc hậu của nông dân, đẩy mạnh việc đào tạo nghề cho người dân.

Vai trò của khoa học - công nghệ trong phát triển nền nông nghiệp hiện đại 

Theo Luật Công nghệ cao 2008, CNC là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, được tích hợp từ thành tựu KH - CN hiện đại, tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Việc ứng dụng CNC góp phần quan trọng để phát triển nền nông nghiệp hiện đại, tăng nhanh được năng suất cây trồng, vật nuôi với chất lượng cao, đồng đều và ổn định.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hướng đến mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, thu hẹp khoảng cách so với các nước tiên tiến trong xu thế hội nhập hiện nay, trong thời gian tới, ngành Nông nghiệp cần đẩy mạnh các giải pháp về quy hoạch phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC, triển khai các hoạt động nghiên cứu tạo công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường thông tin, hợp tác quốc tế, nguồn vốn và chính sách hỗ trợ để hoạt động ứng dụng CNC trong nông nghiệp phát triển mạnh. 

Tuy nhiên, việc ứng dụng CNC trong nông nghiệp đang gặp nhiều khó khăn. PGS,TS. Nguyễn Minh Châu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam, cho biết: “Thời gian qua, mặc dù Viện có nhiều nỗ lực trong việc chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho người dân nhưng chưa đạt được kết quả như mong đợi. Khó khăn thường gặp là về kinh phí”. Nhiều vấn đề như sản xuất trái cây theo phương pháp hữu cơ, thay thế chất bị cấm sử dụng trên cây xoài… do không có kinh phí nên khó thực hiện trên diện rộng. Các giống rau sau khi được công nhận cũng không có điều kiện làm mô hình trình diễn, vì thế cũng không phổ biến giống được. Một số khó khăn lớn khác là bản quyền không được tôn trọng, lương cán bộ khoa học quá thấp, thiếu kinh phí hoạt động thường xuyên và kinh phí nghiên cứu, thủ tục thanh toán phức tạp… khiến việc nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu KH - CN vào sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long bị hạn chế (ĐBSCL). 

TS. Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, nhận định: Trong bối cảnh hiện nay, “Cánh đồng mẫu lớn” đang được xem là nơi thuận lợi để ứng dụng thành tựu KH-CN và triển khai cơ giới hóa đồng bộ. Mô hình này là tiền đề để xây dựng vùng nguyên liệu, vùng chuyên canh lúa, cần quy hoạch, thiết kế lại đồng ruộng, diện tích rộng… rất thích hợp để ứng dụng KH-CN. Các mô hình chuỗi liên kết cung ứng - tiêu thụ, tạo sự ổn định phát triển bền vững, đồng thời nhờ ứng dụng KH-CN đã góp phần rất lớn vào hạ giá thành sản xuất lúa khoảng 721 đồng/kg trên diện tích 20.000ha tại An Giang, giúp nông dân tiết kiệm khoảng 100 tỷ đồng.

An Giang hướng đến nền nông nghiệp công nghệ cao, bền vững

Ngày 27-6-2012, Tỉnh ủy An Giang ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU “Về phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC tỉnh An Giang giai đoạn 2012 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”. Mục tiêu mà An Giang hướng đến là phát huy tối đa tiềm lực KH- CN trong nông nghiệp, tạo ra sản phẩm chất lượng tốt, năng suất cao, phục vụ chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu sản phẩm nông nghiệp an toàn cho thị trường trong nước và xuất khẩu. 

An Giang có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, nhất là lúa và cá. Với lợi thế do thiên nhiên mang lại, đặc biệt là phù sa từ sông Tiền, sông Hậu, tỉnh cũng đang phát triển mạnh sản xuất rau màu. Để thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã thống nhất chủ trương cho Sở Khoa học và Công nghệ An Giang thành lập Trung tâm Công nghệ sinh học tỉnh với mục tiêu tổng quát là nhằm hỗ trợ xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, có khả năng cạnh tranh cao dựa trên nền tảng sản xuất hàng hóa, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, thân thiện với môi trường, bảo tồn và duy trì tốt nhất tài nguyên sinh thái, tài nguyên nông nghiệp và thích ứng với biến đổi khí hậu, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Theo đó, phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; dựa trên cơ sở phát huy mạnh mẽ nội lực kết hợp huy động ngoại lực và các nguồn lực khác theo hướng xã hội hóa, tiếp thu có chọn lọc công nghệ mới, tiên tiến trong và ngoài nước. 

Là một trong những tỉnh sản xuất nông nghiệp hàng đầu cả nước với sản lượng lúa hơn 3 triệu tấn/năm và phát triển mạnh nghề nuôi, chế biến cá tra, cá ba sa xuất khẩu, nhiều năm qua nông dân An Giang đã mạnh dạn ứng dụng nhiều tiến bộ KH-CN vào thực tiễn sản xuất, mang lại giá trị và chất lượng hàng hóa cao, năng suất vượt trội. Từ năm 2008, thông qua Trường Đại học An Giang, Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) đã trao máy vi tính xách tay cho một số xã, phường, thị trấn trong tỉnh theo chương trình liên kết nhà khoa học với người trồng lúa. Đây là bước "kết nối" tiếp theo chương trình đưa Internet về với Câu lạc bộ Nông dân đã được triển khai trước đó. 

Thời gian qua, Hội Nông dân tỉnh An Giang cùng các sở, ngành liên quan đã có nhiều cách làm sáng tạo trong việc chuyển giao khoa học - kỹ thuật đến tận đồng ruộng cho nông dân. Hiểu rõ tập quán của bà con nông dân là thường tập trung trao đổi kinh nghiệm sản xuất, tìm hiểu những cách làm hay, cách bón phân hiệu quả, những loại thuốc bảo vệ thực vật phòng trừ dịch hại tốt... bên những tách trà, quán nước, Trung tâm Khuyến nông tỉnh An Giang, Báo Nông nghiệp Việt Nam phối hợp cùng Hội Nông dân tỉnh An Giang, các địa phương và bà con nông dân thực hiện mô hình “Cà phê khuyến nông”. Đây là nơi để nông dân gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm sản xuất và chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Cùng với mô hình “Cà phê khuyến nông”, tỉnh An Giang còn triển khai thí điểm các điểm truy cập Internet tại nhiều địa phương thuần nông, nhằm giúp người dân nhanh chóng tiếp cận những thành tựu khoa học - kỹ thuật, nâng cao dân trí. Xã vùng sâu Tân Thạnh (thị xã Tân Châu) là một trong những địa phương được Sở KH-CN chọn thực hiện điểm cung cấp thông tin KH-CN đặt tại Trung tâm Học tập cộng đồng của xã với các trang thiết bị gồm 2 máy tính có kết nối Internet, máy in, máy ảnh kỹ thuật số, tủ đựng tài liệu, bàn ghế sinh hoạt... Bên cạnh đó, các điểm thực hiện dự án “Câu lạc bộ Internet nông dân” cũng được thực hiện ở những vùng sâu, vùng xa… 

Tất cả đều hướng đến mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp CNC, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân. Thông qua các mô hình này, được sự hỗ trợ tận tình của các cán bộ Trung tâm Tin học và Thông tin Khoa học công nghệ, Trung tâm Dạy nghề Hội Nông dân, ngày càng có nhiều nông dân thành thạo với Internet. Khi muốn tìm hiểu sâu hơn về thông tin nông nghiệp mà mình quan tâm, các thành viên trong câu lạc bộ có thể gửi thư điện tử đến các nhà khoa học để hỏi. Sau đó, họ chia sẻ với nhau những thông tin mới về kỹ thuật sản xuất, giá cả các loại nông sản để từ đó định hướng sản xuất hiệu quả hơn. 

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao thông qua mô hình liên kết “4 nhà” 

Thực hiện Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng”, Bộ Nông nghiệp và Phát triên nông thôn cùng Ngân hàng Nhà nước, Hội Nông dân Việt Nam đã tổ chức ký Chương trình “liên kết 4 nhà” (nhà nước - nhà nông - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp) trong các khâu: sản xuất - chế biến - tiêu thụ. Trong mô hình “liên kết 4 nhà” chức năng và nhiệm cụ thể của các nhà được xác định như sau:

Nhà nước: giữ vai trò hỗ trợ, điều phối thông qua các chính sách khuyến khích và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch vùng nguyên liệu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, xúc tiến thương mại, đồng thời là người kiểm tra, giám sát và bảo đảm tính pháp lý cho việc thực hiện hợp đồng giữa các bên.

Nhà nông: trực tiếp làm ra sản phẩm, ký kết hợp đồng với doanh nghiệp và được nhà khoa học hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và được nhà nước hỗ trợ về chính sách vay vốn trong sản xuất nông nghiệp.

Nhà khoa học: giữ vai trò giúp nông dân ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá.

Nhà doanh nghiệp: đóng vai trò chủ động ký kết hợp đồng, hỗ trợ vay vốn và vật tư nông nghiệp, thực hiện bao tiêu sản phẩm của nhà nông với giá thỏa thuận, bảo đảm lợi ích của cả hai bên.

An Giang được xem là một trong những địa phương đi đầu cả nước trong việc xây dựng mô hình “liên kết 4 nhà”. Từ năm 2001, tỉnh đã sớm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ký kết hợp đồng đầu tư và bao tiêu sản phẩm với hộ nông dân. Đầu năm 2003, Hiệp hội Nuôi và chế biến thủy sản An Giang được thành lập nhằm mục đích hình thành cách làm ăn mới theo hướng gắn kết giữa người nuôi, nhà chế biến và tiêu thụ sản phẩm kết hợp hài hòa các lợi ích. Vụ Đông Xuân năm 2004, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân của tỉnh đã ký hợp đồng bao tiêu hơn 45.000ha lúa chất lượng cao, Công ty Antesco ký kết hợp đồng bao tiêu bắp non với hộ nông dân... Đặc biệt, mô hình "liên kết 4 nhà" đã làm thay đổi nhận thức của nhiều nông dân trong việc bỏ tập quán canh tác cũ lạc hậu, thay vào đó là việc ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện mô hình “liên kết 4 nhà” hướng đến phát triển nền nông nghiệp CNC, bền vững ở An Giang cũng đang gặp nhiều khó khăn. Đó là:

- Nhà nước chưa thật sự giữ vai trò chủ đạo: Cụ thể là Nhà nước vẫn chưa tạo ra được một hành lang pháp lý phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các “nhà”, đặc biệt là trong hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà doanh nghiệp với nhà nông. Ngoài ra, lãnh đạo một số địa phương còn hiểu chưa đầy đủ về chủ trương “liên kết 4 nhà” nên chưa có sự hỗ trợ kịp thời, hợp lý.

- Nhà khoa học thiếu mạnh dạn: Vẫn còn thiếu vắng các cơ quan, tổ chức nghiên cứu mạnh dạn, chủ động đưa định hướng liên kết thành một ưu tiên trong việc triển khai các chương trình, dự án nghiên cứu KH-CN. Ngay cả những hợp đồng được ký kết thông qua hoạt động liên kết thì quyền lợi vật chất của các cơ quan khoa học hay các nhà khoa học cũng chưa được xác định rõ ràng. Các cơ quan khoa học giữ vai trò rất quan trọng là giúp nông dân ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Tuy nhiên, cho đến nay nhiều cơ quan khoa học vẫn lúng túng trong việc thực hiện “liên kết 4 nhà”.

- Nhà doanh nghiệp sợ rủi ro: Doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, không chỉ thiếu sự quan tâm, hỗ trợ của các ''nhà'' khác mà còn phải chịu rủi ro cao khi ứng vốn cho nông dân. Khi gặp rủi ro do thiên tai hay các nguyên nhân bất khả kháng khác, nông dân không trả được nợ cho doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải kéo dài thời gian nợ ngân hàng làm tăng chi phí vốn vay, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động. Vì sợ rủi ro, nhiều doanh nghiệp vẫn còn ngại khi ký hợp đồng đầu tư cho nông dân sản xuất.

- Nhà nông chưa có khả năng định hướng sản xuất: Một trong những hạn chế lớn nhất của nhà nông là trình độ học vấn. Chính điều này đã tạo cho nhiều nhà nông tâm lý e ngại khi tiếp xúc với các ''nhà'' khác. Hậu quả là nhiều nông dân chưa có khả năng định hướng sản xuất theo yêu cầu thị trường, sản phẩm làm ra yếu sức cạnh tranh do giá thành cao, chất lượng chưa cao nên giá bán thấp lợi nhuận cũng thấp. 

Qua phân tích trên cho thấy sự “liên kết 4 nhà” thời gian qua vẫn còn lỏng lẻo, có “liên” chứ chưa có “kết”. 

Đề xuất một số giải pháp 

- Trong mô hình “liên kết 4 nhà”, quan trọng nhất là vai trò của “nhạc trưởng” của Nhà nước. Với vai trò đó, Nhà nước cần có chính sách tổ chức lại sản xuất theo hướng quản lý cộng đồng, thông qua việc thành lập các hợp tác xã, cùng liên kết với nhau trong việc ứng dụng KH-CN, thực hiện các quy trình sản xuất đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.

- Nên có quy hoạch vùng và sản phẩm, dịch vụ nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; chọn lựa công nghệ; đào tạo, thu hút nguồn nhân lực; thực thi và phát triển hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút đầu tư phát triển nguồn lực, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường ứng dụng và phát triển công nghệ; đẩy mạnh công tác truyền thông về chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC.

- Trong quá trình thực hiện “liên kết 4 nhà”, cần có giám sát độc lập trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Đây là một kiểu tổ chức sản xuất nông nghiệp giúp cho người tiêu dùng được thụ hưởng những “sản phẩm xanh”- sản phẩm an toàn, phù hợp tiêu chuẩn VietGAP.

- Nhà doanh nghiệp cần minh bạch trong việc cung cấp các thông tin thị trường và yêu cầu chất lượng sản phẩm cho người dân, cho nhà khoa học và nhà nước để tổ chức sản xuất ra sản phẩm phù hợp yêu cầu của thị trường.

- Thay đổi thói quen, tập quán canh tác lạc hậu của nông dân thông qua việc đẩy mạnh đào tạo nghề trong nông nghiệp, giúp nông dân ứng dụng KH-CN trong sản xuất nông nghiệp CNC theo hướng bền vững, nâng cao hơn nữa giá trị gia tăng các sản phẩm nông nghiệp./.