Trà Vinh là một tỉnh vùng sâu, ven biển, có 7 huyện, 1 thị xã, 102 xã, phường, thị trấn, dân số 1.077.200 người, trong đó có hơn 30% đồng bào dân tộc Khơ-me, 1,5% là người Hoa và nhiều tôn giáo. Tiềm năng thế mạnh của tỉnh là nông - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ - du lịch. Tuy xuất phát điểm kinh tế - xã hội của tỉnh còn thấp, kết cấu hạ tầng còn nhiều mặt thấp kém, bất cập, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhưng hệ thống chính trị ở cơ sở được quan tâm xây dựng, chất lượng hoạt động từng bước được nâng lên.

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn giải quyết được những yêu cầu, nội dung bức xúc trong xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; tạo ra cho hệ thống chính trị ở cơ sở một sức mạnh mới và khả năng mới trong việc lãnh đạo thực hiện hoàn thành nhiệm vụ. Quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), Tỉnh ủy đề ra chương trình hành động, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và phương pháp hoạt động của từng tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Qua 5 năm tổ chức thực hiện, hệ thống chính trị ở cơ sở trong tỉnh đã có những bước chuyển biến quan trọng.

Trước hết, các cấp ủy, đội ngũ đảng viên nhận thức đúng, đủ hơn chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn, quan tâm đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; nắm vững quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần. Các cơ quan tham mưu của tỉnh ủy có hướng dẫn xây dựng quy chế làm việc của cấp ủy ở cơ sở, xác định mối quan hệ trong lãnh đạo, điều hành, cách xây dựng nghị quyết... Việc xây dựng nghị quyết luôn bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở địa phương, nhất là các nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tổ chức lại sản xuất, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, xây dựng ấp, khóm, xã, phường, thị trấn văn hóa... Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung - dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, chế độ sinh hoạt cấp ủy, chi bộ tập trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, bức xúc ở cơ sở.

Việc kiểm tra đánh giá kết quả xây dựng đảng bộ, chi bộ đã bám sát nội dung hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, Tỉnh ủy và có sự tham gia nhận xét của khối chính quyền, đoàn thể. Số đảng bộ xã trong sạch, vững mạnh hằng năm tăng ít nhưng được nâng cao về chất lượng. Năm 2006, có 65,68% số đảng bộ xã đạt trong sạch, vững mạnh. Trong số 65 đảng bộ xã có trên 20% số dân là đồng bào dân tộc Khơ-me. Năm 2006 có 56,92% số đảng bộ đạt trong sạch, vững mạnh, 41,53% số đảng bộ hoàn thành nhiệm vụ, 1,53% số đảng bộ yếu kém. Các đảng bộ đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.

Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bước chuyển biến tích cực. Cán bộ, cấp ủy viên, đảng viên tự phê bình trước quần chúng trước khi chi bộ kiểm điểm phân tích chất lượng đảng viên và trước khi tiến hành đại hội; thực hiện ghi chép Sổ tay đảng viên, lập kế hoạch xóa đói - giảm nghèo trong đảng viên. Có trên 95% đảng viên được phân công nhiệm vụ phụ trách tổ hoặc cụm dân cư, sinh hoạt ít nhất trong một tổ chức đoàn thể (trừ đảng viên được miễn công tác, miễn sinh hoạt). Năm 2006 có 59,02% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ (trong đó có 15,14% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ), 39,02% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ và 1,96% đảng viên vi phạm tư cách. Trên cơ sở phân tích xếp loại đảng viên hằng năm, các cấp ủy cơ sở đã kịp thời đề ra biện pháp nâng cao chất lượng đối với đảng viên, kết quả có 2.097 đảng viên có khuyết điểm hạn chế, vi phạm tư cách sửa chữa tiến bộ hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Công tác kết nạp đảng viên: Ban thường vụ Tỉnh ủy có chỉ thị Về tăng cường công tác phát triển đảng viên là người dân tộc Khơ-me, Hoa. Qua hơn 5 năm, đã kết nạp 10.303 đảng viên (trong đó có 1.680 đảng viên người Khơ-me), nâng tổng số đảng viên chiếm 2,52% số dân. Riêng đảng viên người Khơ-me hiện có 3.634 đồng chí, chiếm tỉ lệ 13,84% so với tổng số đảng viên, góp phần quan trọng vào việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và tạo điều kiện cho công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ ở cơ sở.

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoạt động đúng theo các quy định của pháp luật, chất lượng ngày càng được nâng lên. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh thường xuyên kiểm tra, uốn nắn chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; kiểm tra việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Chất lượng hoạt động của Mặt trận, đoàn thể ngày càng được nâng cao, mọi hoạt động của Mặt trận, đoàn thể đều hướng về cơ sở, gần dân, sát dân; thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đảng, chính quyền giải quyết kịp thời các yêu cầu chính đáng của dân, thúc đẩy thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.

Các cấp ủy đã quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ở xã, phường, thị trấn, chú trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho cơ sở. Đã quy hoạch được cấp ủy cho nhiệm kỳ 2010 - 2015. Tỉnh có chính sách thu hút người có bằng tốt nghiệp đại học về công tác ở cơ sở, có 91/102 xã, phường, thị trấn tiếp nhận 260 người. Trong số đó có 34 đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ đã được kết nạp vào Đảng, 18 đồng chí được tín nhiệm bổ nhiệm, bầu vào các chức danh chủ chốt (2 phó chủ tịch ủy ban nhân dân xã) và 94 đồng chí được tuyển vào công chức chuyên trách và không chuyên trách của xã. Thực hiện Đề án “Đào tạo cán bộ theo địa chỉ” cho xã, ấp, đã khai giảng 7 lớp, có 693 học viên, gồm lớp đại học, cao đẳng phát triển nông thôn, lớp chỉ huy trưởng quân sự xã, trung cấp pháp lý... Tỉnh mở hàng chục lớp đào tạo lý luận chính trị trung cấp, bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức quản lý Nhà nước, công tác đoàn thể... cho trên 3.000 cán bộ xã, ấp. Để tạo nguồn cán bộ chủ chốt, Ban thường vụ Tỉnh ủy quyết định thành lập Ban chủ nhiệm xây dựng Đề tài “Thực trạng và giải pháp tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho hệ thống chính trị của thời kỳ 2005 - 2015” trong đó xác định đào tạo nguồn cán bộ ở xã là một khâu đặc biệt quan trọng.

Tỉnh đã xuất 1,5 tỉ đồng giải quyết cho 1.064 cán bộ có thời gian công tác ở xã nhưng không đủ điều kiện hưởng chính sách nghỉ việc theo các quy định của Chính phủ. Đồng thời xây dựng Quy định tạm thời về chính sách trợ cấp nghỉ việc đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Theo đó cán bộ không bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định, khi tổ chức hoặc cá nhân có yêu cầu sẽ thực hiện chính sách nghỉ việc, ngoài mức hưởng các chế độ theo quy định của trung ương, còn được hưởng chính sách trợ cấp của tỉnh (dự chi trên 14 tỉ đồng).

Các cấp ủy, sở, ban, ngành tỉnh, nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp của cơ sở ngày càng quan tâm giúp đỡ, củng cố, xây dựng cơ sở. Các huyện ủy, thị ủy phân công ủy viên thường vụ hoặc cấp ủy viên chỉ đạo trực tiếp toàn diện một xã, phường, thị trấn; tỉnh phân công các sở, ngành, công ty của tỉnh nhận đỡ đầu các xã để theo dõi, có biện pháp hỗ trợ xã phát triển toàn diện theo yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Việc đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, chính trị ở xã, phường, thị trấn. Mức tăng trưởng GDP năm 2006 là 14,42% (cao nhất từ trước tới nay). Kinh tế hợp tác và hợp tác xã từng bước được củng cố, đến nay toàn tỉnh có 2 Liên hiệp hợp tác xã, 132 hợp tác xã với 20.319 xã viên, vốn điều lệ trên 61 tỉ đồng; toàn tỉnh hiện có trên 2.500 hộ làm kinh tế trang trại, trong đó có 785 trang trại sản xuất nông nghiệp. Tỷ lệ hộ nghèo giảm 3%/năm, đến tháng 6-2007 số hộ nghèo còn 28% (theo tiêu chí mới). Nếu như khi mới tái lập tỉnh tháng 5-1992 toàn tỉnh chỉ có 23 km đường nhựa thì nay đã có hơn 650 km và gần 2.000 km đường giao thông liên ấp được bê-tông hóa. Toàn tỉnh có 100% xã được điện khí hóa, có 93% số hộ sử dụng điện, 82% số hộ sử dụng nước sạch, bình quân 16 máy điện thoại cố định/100 hộ dân; trên 90% số hộ có phương tiện nghe, nhìn; 100% xã có trạm y tế và có bác sĩ; trên 90% phòng học kiên cố và bán kiên cố, có 06 trường phổ thông dân tộc nội trú với 1.167 học sinh Khơ-me; 100% xã, phường, thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở phát triển khá. Đến nay có 568/783 ấp, khóm, 10 xã, phường, thị trấn được công nhận là xã, phường, thị trấn, ấp, khóm văn hóa... Với những kết quả trên đã làm rõ bộ mặt nông thôn Trà Vinh ngày càng khởi sắc.

Từ thực tiễn xây dựng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn của tỉnh và qua Hội nghị do Trung ương chọn Trà Vinh làm điểm tổ chức sơ kết (năm 2004) rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, phải làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng của cấp xã, phường, thị trấn. Xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở phải gắn liền và thực hiện đồng bộ với xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã, nhất là vùng có đông đồng bào dân tộc Khơ-me phải trên cơ sở xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần, thường xuyên chăm lo xây dựng và từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện nhằm phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, xóa đói, giảm nghèo, củng cố quốc phòng an ninh, gắn liền với lãnh đạo thực hiện đúng các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có liên quan đến đời sống của nhân dân; tạo điều kiện cho nhân dân phê bình, đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng tinh thần đoàn kết, bình đẳng dân tộc, thương yêu giúp đỡ nhau.

Ba là, phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ chủ chốt, cán bộ là người Khơ-me thật sự có năng lực lãnh đạo, điều hành. Khi cần thiết, có thể tăng cường cán bộ của cấp trên về củng cố cơ sở yếu kém. Thường xuyên xem xét, bổ sung kế hoạch quy hoạch, đào tạo để bảo đảm cho đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực, phẩm chất tốt, sức chiến đấu cao, tiêu biểu, gương mẫu và phải có cái tâm trong sáng, nắm được các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, có khả năng quy tụ cán bộ và sâu sát với quần chúng, xây dựng nội bộ đoàn kết thống nhất, có ý thức phát huy nội lực, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và các nhiệm vụ khác của địa phương.

Bốn là, làm tốt việc phân công, quản lý đảng viên, phát triển đảng viên trong vùng đồng bào dân tộc Khơ-me, tôn giáo. Chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt ở các ấp, khóm, phum, sóc còn ít đảng viên. Có chủ trương, biện pháp thiết thực để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên cả về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, thể hiện tính tiên phong gương mẫu.

Năm là, nâng cao vai trò chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra uốn nắn của cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp của cơ sở, hướng về cơ sở, sâu sát, hiểu tình hình, giúp cán bộ cơ sở nâng cao nhận thức, giải quyết đúng và kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và những vấn đề mới đang đặt ra. Cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ xã, phường, thị trấn, ấp, khóm. Kịp thời xử lý nghiêm minh các vi phạm, mạnh dạn thay đổi cán bộ chủ chốt ở những cơ sở yếu kém nhiều năm liền. Hằng năm, rút kinh nghiệm chỉ đạo và nhân rộng điển hình tốt.