TCCS - Sau khi Liên Xô - một trong những cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới bị “tan rã mà không cần chiến tranh”, khiến không ít quốc gia cảm thấy dường như sức mạnh quân sự không còn ý nghĩa gì đáng kể trong một thế giới mới không còn đối đầu ý thức hệ giữa hai hệ thống chính trị quốc tế. Nhưng hàng loạt cuộc chiến tranh và xung đột liên tiếp xảy ra sau khi Liên Xô tan rã, cùng với các mâu thuẫn địa - chính trị và địa - kinh tế nổi lên ngày càng gay gắt, đã đưa các quốc gia quay trở lại với tư duy truyền thống, rằng chiến tranh vẫn là sự kế tục của chính trị bằng bạo lực vũ trang. Vì thế, trong những năm gần đây đã hình thành xu hướng các nước tăng cường hiện đại hóa quân đội.

Động lực tăng cường hiện đại hóa quân đội sau Chiến tranh lạnh

Có thể thấy, hai động lực chủ yếu khiến các nước tăng cường hiện đại hóa quân đội sau Chiến tranh lạnh, đó là tồn tại nhiều nguy cơ có thể dẫn đến chiến tranh và cuộc cách mạng mới trong quân sự.

1 - Trên phạm vi thế giới, trong từng khu vực và giữa các quốc gia vẫn tồn tại nhiều nguy cơ dẫn tới chiến tranh.

Một là, nguy cơ chiến tranh xuất phát từ tham vọng giành quyền bá chủ thế giới của một số thế lực hiếu chiến. Từ giữa thế kỷ XX, các thế lực hiếu chiến ở Mỹ luôn theo đuổi mục tiêu chiến lược toàn cầu là bá chủ và lãnh đạo thế giới. Đó cũng là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược toàn cầu của Mỹ trong thế kỷ XXI. Hiện nay, mặc dù Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma có đưa ra chủ trương “thay đổi” nước Mỹ và thế giới, nhưng mục tiêu đó là bất biến. Nếu có “thay đổi” thì chỉ là thay đổi chiến thuật và sách lược thực hiện mục tiêu đó mà thôi. Chiến lược toàn cầu của Mỹ luôn xung đột về lợi ích với nhiều quốc gia trên thế giới và là nguyên nhân căn bản, chủ yếu gây nên nhiều cuộc chiến tranh và xung đột sau Chiến tranh lạnh như chiến tranh Vùng Vịnh (năm 1990), chiến tranh Cô-xô-vô (năm 1999), chiến tranh Áp-ga-ni-xtan (năm 2001), chiến tranh I-rắc (năm 2003), chiến tranh Nam Ô-xê-ti-a (năm 2008).

Hai là, nguy cơ chiến tranh xuất phát từ mâu thuẫn ý thức hệ. Sau Chiến tranh lạnh, mâu thuẫn về ý thức hệ vẫn là một trong những mâu thuẫn cơ bản của thời đại trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc không ngừng tiến công về chính trị và tư tưởng, thực hiện "diễn biến hòa bình" kết hợp với gây bạo loạn lật đổ, ly khai, gây sức ép về "dân chủ" và "nhân quyền" đối với các nước và các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Trước tình hình đó, các nước đấu tranh nhằm chống lại và làm thất bại các âm mưu và hành động nói trên của chủ nghĩa đế quốc.

Ba là, nguy cơ chiến tranh do mâu thuẫn lợi ích giữa các quốc gia, dân tộc. Mâu thuẫn lợi ích quốc gia, dân tộc là mâu thuẫn đối kháng, tiềm ẩn nguy cơ dẫn tới chiến tranh, trong đó nổi lên các cuộc tranh giành tài nguyên thiên nhiên. Trong sự phát triển của thế giới ngày nay, tài nguyên thiên thiên vẫn đóng vai trò đặc biệt quan trọng và vẫn là nguồn gốc nảy sinh các cuộc xung đột và chiến tranh do sự phân bố của chúng không đồng đều ở các khu vực và các quốc gia. Trong Chương trình hiện đại hóa quân đội công bố năm 2008, Mỹ đã đề ra mục tiêu hiện đại hóa toàn diện để sẵn sàng tiến hành “cuộc chiến tranh tài nguyên” trong thế kỷ XXI.

Bốn là, nguy cơ chiến tranh xuất phát từ mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo. Sau Chiến tranh lạnh, tình hình chính trị quân sự trên thế giới trở nên bất ổn, một phần không nhỏ là do sự gia tăng các cuộc xung đột có nguồn gốc từ mâu thuẫn trong quan hệ giữa các dân tộc, sắc tộc và các tôn giáo diễn ra căng thẳng ở một số quốc gia và khu vực trên thế giới đã, đang và sẽ bị các thế lực hiếu chiến lợi dụng, kích động nhằm gây chia rẽ nội bộ và làm suy yếu các quốc gia.

Năm là, nguy cơ chiến tranh xuất phát từ các nguy cơ an ninh phi truyền thống có tính toàn cầu. Vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, xuất hiện các nguy cơ “an ninh phi truyền thống” có tính toàn cầu như chủ nghĩa khủng bố, buôn lậu ma túy, phổ biến vũ khí sát thương hàng loạt, tội phạm xuyên quốc gia, di cư bất hợp pháp v.v.. Những nguy cơ đó hình thành ở nhiều quốc gia trên thế giới, buộc các quốc gia phải chuẩn bị lực lượng quân sự để đối phó.

Những nguy cơ trên đây tác động đan xen do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, gắn với lợi ích cơ bản của các quốc gia, dân tộc, khiến quá trình đấu tranh và hợp tác trên phạm vi thế giới trong những năm tới trở nên quyết liệt và hết sức phức tạp. Sự vận động, đan xen của các nguy cơ dẫn đến chiến tranh theo từng cấp độ khác nhau. Trong đó, mâu thuẫn gay gắt giữa chủ nghĩa đế quốc bá quyền, hiếu chiến với các dân tộc, các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới là yếu tố bao trùm tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh xâm lược.

2 - Cuộc cách mạng mới trong quân sự

Trong lịch sử loài người đã từng diễn ra 6 cuộc cách mạng trong quân sự có tính quy luật trên phạm vi toàn thế giới.

Cuộc cách mạng trong quân sự lần thứ nhất diễn ra khi loài người bắt đầu biết chế tạo và sử dụng các công cụ chuyên dùng để tiến hành chiến tranh như dao, kiếm, nỏ, cung tên, gọi là vũ khí lạnh, đã tạo ra những thay đổi căn bản trong phương thức tiến hành chiến tranh và hình thành tổ chức đội quân chuyên nghiệp đầu tiên.

Cuộc cách mạng trong quân sự lần thứ hai diễn ra vào thế kỷ XIII liên quan tới việc phát minh ra thuốc nổ - một trong những phát minh vĩ đại nhất của loài người. Ngay lập tức, thuốc nổ được ứng dụng trong quân sự và tạo ra một thế hệ vũ khí mới, gọi là vũ khí nóng như súng trường, súng cối và pháo.

Cuộc cách mạng trong quân sự lần thứ ba diễn ra vào khoảng từ nửa cuối thế kỷ XVIII, gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp hay còn gọi là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất, mở đầu bằng phát minh động cơ hơi nước vào năm 1784 của nhà phát minh Giêm Oát (1736 - 1819), đánh dấu sự ra đời quá trình cơ giới hóa trong sản xuất công nghiệp và sau đó là hàng loạt phương tiện cơ giới trong quân sự như tàu chiến, xe tăng.

Cuộc cách mạng trong quân sự lần thứ tư diễn ra vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, gắn liền với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai, tạo ra vô vàn các phát minh sáng chế và được áp dụng trong quân sự, tạo ra nhiều loại vũ khí mới, làm thay đổi cơ cấu tổ chức quân đội và hình thành các binh chủng kỹ thuật.

Cuộc cách mạng trong quân sự lần thứ năm liên quan tới sự ra đời vũ khí hạt nhân. Có thể khẳng định rằng, vũ khí hạt nhân là động lực dẫn tới một trong những cuộc cách mạng to lớn nhất trong quân sự do uy lực sát thương và sức tàn phá khủng khiếp của loại vũ khí này.

Cuộc cách mạng trong quân sự lần thứ sáu hay còn gọi là cuộc cách mạng mới trong quân sự, bắt đầu hình thành từ đầu những năm 70 thế kỷ XX dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ ba vào lĩnh vực quân sự, đang tạo ra các loại phương tiện chiến tranh có tính năng hoàn toàn khác với những phương tiện đã từng có trước đây, như có độ chính xác cao, được điều khiển từ xa hoặc tự điều khiển, có tầm hoạt động xuyên quốc gia hoặc toàn cầu. Vì thế, nếu trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phải ném hàng chục tấn bom đạn để tiêu diệt 1 xe tăng hoặc một cỗ pháo, thì hiện nay chỉ cần một quả tên lửa hoặc một quả đạn pháo được điều khiển chính xác cao cũng có thể tiêu diệt được mục tiêu tương tự. Trước đây, để tàn phá các mục tiêu chiến lược trên lãnh thổ đối phương, bên tiến công phải đưa máy bay hoặc bộ binh xâm phạm không phận của đối phương. Hiện nay, với các loại vũ khí mới chính xác và tầm xa, bên tiến công có thể tàn phá các mục tiêu trên lãnh thổ đối phương mà không cần xâm phạm không phận và lãnh thổ của bên bị tiến công. Vì thế, hầu như quân đội nước nào cũng phải mua sắm các loại vũ khí mới để thay thế vũ khí trang bị hiện có, gây nên “cơn sốt” trên thị trường vũ khí thế giới.

Những nội dung chủ yếu tăng cường hiện đại hóa quân đội

Hiện nay, gần như tất cả các nước đều tăng cường sức mạnh quân đội của họ theo ba hướng chủ yếu.

Một là, hiện đại hóa vũ khí trang bị. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và công nghệ quân sự là động lực thúc đẩy sự đổi mới hàng loạt trang bị vũ khí, tạo ra bước phát triển nhảy vọt về chất trong quá trình phát triển vũ khí trang bị. Đồng thời, chu kỳ đổi mới hệ thống vũ khí trang bị ngày càng rút ngắn, thậm chí có nhiều loại vũ khí trang bị chưa kịp sử dụng trong chiến tranh đã bị lạc hậu. Tình hình này buộc các nước phải không ngừng đổi mới các hệ thống vũ khí trang bị cũ, đưa vào sử dụng các loại vũ khí trang bị mới và làm thay đổi căn bản tư duy về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng ở nhiều nước. Thí dụ, Nga chủ trương đến năm 2020 thay mới toàn bộ kho vũ khí thông thường từ thời Liên Xô trước đây. Còn Trung Quốc chủ trương các nhà máy chế tạo vũ khí trang bị không sản xuất hàng loạt quy mô lớn mà chỉ hoàn chỉnh quy trình công nghệ chế tạo, sẵn sàng động viên sản xuất loạt lớn khi có chiến tranh và chuyển sang nghiên cứu phát triển các hệ thống vũ khí trang bị mới.

Hai là, cải cách tổ chức quân đội. Trong điều kiện hiện nay, tất cả các nước đều tiến hành cải cách tổ chức quân đội theo hướng biên chế gọn nhẹ, tinh nhuệ, giảm đáng kể quân số lục quân; tăng tỷ lệ hải quân và không quân. Thí dụ, tính đến cuối năm 2010, Nga đã tiến hành cắt giảm quân số từ gần 3 triệu người xuống còn dưới 1 triệu người, Trung Quốc cắt giảm quân số từ khoảng 5 triệu người xuống mức không quá 2 triệu. Nhiều nước thành lập lực lượng phản ứng nhanh hoặc lực lượng đặc nhiệm như Mỹ, Nga, Trung Quốc; thành lập binh chủng chiến tranh thông tin, binh chủng vũ trụ, lực lượng nhất thể hóa có chức năng của các quân binh chủng khác nhau, bao gồm các quân nhân có tố chất cao và hệ thống vũ khí, hệ thống chỉ huy thông tin hiện đại. Theo hướng hiện đại hóa tổ chức quân đội, các nước chú trọng hiện đại hóa hệ thống chỉ huy quân đội ở tất cả các cấp.

Ba là, đổi mới lý luận quân sự. Vũ khí trang bị mới, tổ chức biên chế quân đội mới trong bối cảnh cục diện chính trị - quân sự mới đặt ra yêu cầu rất cao đối với sự phát triển lý luận quân sự như đổi mới quan niệm về chiến tranh và hòa bình, về các loại hình chiến tranh, về sức mạnh quân sự, về đối tượng và đối tác v.v.. Vì vậy, việc đổi mới toàn diện lý luận quân sự đã trở thành chủ đề lớn trong lĩnh vực quân sự của nhiều nước.

Cách thức tăng cường sức mạnh quân sự

Phụ thuộc vào thể chế chính trị và điều kiện kinh tế - xã hội, các quốc gia có các cách thức tăng cường sức mạnh quân sự khác nhau.

Độc lập tự chủ là chính. Đây là cách thức tăng cường sức mạnh quân sự của các nước lớn, có tiềm lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật cũng như công nghệ mạnh như Mỹ, Nga, Pháp, Anh, Đức, Ấn Độ và Trung Quốc. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa, ngay cả những nước được đánh giá là cường quốc quân sự như Mỹ và Nga vẫn có các chương trình và đề án hợp tác chế tạo vũ khí trang bị với các nước khác. Đó là xu thế đang được đẩy mạnh xét từ quan điểm kinh tế, quân sự cũng như lợi ích chính trị. Thông qua sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chế tạo vũ khí trang bị, Mỹ theo đuổi chủ trương đưa các nước khác vào vị thế phải phụ thuộc Mỹ về chính trị và kinh tế.

Thông qua hợp tác quốc tế và mua sắm trên thị trường thế giới. Dưới tác động của các quá trình toàn cầu hóa trong lĩnh vực quân sự và hình thành thị trường vũ khí trang bị sôi động trên quy mô thế giới, các nước không có đủ tiềm lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật cũng như công nghệ để tự thiết kế chế tạo vũ khí trang bị, thường thông qua các chương trình hợp tác với các nước khác để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm quân sự hoặc mua sắm trên thị trường thế giới. Chẳng hạn như Trung Quốc và Ấn Độ hợp tác với Nga trong chế tạo các loại vũ khí hiện đại như máy bay, tàu chiến, tên lửa, kể cả công nghệ vũ trụ quân sự. Hàn Quốc hợp tác với Mỹ và Nga trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ chế tạo vũ khí trên bộ, trên biển đến phát triển vệ tinh quân sự. Mua sắm vũ khí trang bị là một xu hướng đáng chú ý nhất trong những năm gần đây. Ngày nay, có thể mua sắm gần như tất cả các loại vũ khí trang bị hiện đại trên thị trường thế giới. Thí dụ, Nga vừa thử nghiệm thành công máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5, đã chuẩn bị ký hợp đồng xuất khẩu sang Ấn Độ. Nga xuất khẩu sang nhiều nước loại tên lửa phòng không S-300 được đánh giá là loại vũ khí hiện đại nhất thế giới có thể bắn hạ nhiều loại mục tiêu hàng không như tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình, máy bay “tàng hình” v.v.. Theo Trung tâm phân tích thị trường trang bị quốc tế của Nga và Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế SIPRI, tính từ năm 2001 tới năm 2008, tổng khối lượng vũ khí trang bị nhập khẩu trên thế giới tăng 2,55 lần, từ 22,071 tỉ USD năm 2001 lên tới 65,029 tỉ USD năm 2008. Trong đó, số các nước nhập khẩu vũ khí trang bị trong những năm 2001 - 2008 đã lên tới 153 nước, còn các nước xuất khẩu vũ khí đã là 78 nước. Như vậy, đa số các nước trên thế giới đều phải mua sắm vũ khí trang bị trên thị trường thế giới.

Xu hướng tăng cường sức mạnh quân sự ở khu vực châu Á

Khu vực châu Á được đánh giá là một trong những khu vực năng động nhất trong xu hướng chung tăng cường sức mạnh quân sự trên thế giới, diễn ra trong bối cảnh ở khu vực này có các quốc gia đã sở hữu vũ khí hạt nhân. Châu Á cũng là nơi diễn ra một trong những “điểm nóng hạt nhân” của thế giới là bán đảo Triều Tiên. Châu lục này còn là nơi hội tụ nhiều mâu thuẫn về địa - chính trị và địa - kinh tế như sự tranh chấp ảnh hưởng của các nước lớn; tranh chấp biên giới, lãnh thổ và lãnh hải chưa được giải quyết, tiềm ẩn nguy cơ có thể dẫn tới xung đột và chiến tranh. Ngoài những nguy cơ mang tính truyền thống đó, châu Á còn tiềm ẩn các nguy cơ phi truyền thống như mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo có thể bùng lên bất cứ lúc nào nếu bị lợi dụng, kích động; tội phạm xuyên quốc gia; buôn lậu ma túy, di dân bất hợp pháp v.v.. Những nguy cơ đó buộc các quốc gia ở châu Á phải gia tăng sức mạnh quân sự với những mục đích chiến lược khác nhau. Trong xu hướng hiện đại hóa quân đội, có thể chia các nước châu Á thành ba nhóm.

Nhóm các nước lớn gồm Nga, Trung Quốc, Ấn Độ. Nước Nga trong những năm gần đây chú trọng cải cách toàn diện quân đội, phát triển mới và đưa vào trang bị các phương tiện thuộc “bộ ba chiến lược” như tên lửa đạn đạo xuyên lục địa thế hệ mới cơ động trên bộ như “Topol-M” có tầm xa trên 10.000 km; nâng cấp máy bay ném bom chiến lược Tu-160 được trang bị tên lửa hành trình tầm xa X-555; tàu ngầm thế hệ mới mang tên lửa chiến lược; đóng mới tàu sân bay; vừa đưa vào trang bị vũ khí thông thường “thông minh”. Mục tiêu của Nga là tới năm 2020 thay mới gần như toàn bộ kho vũ khí thông thường cũ để lại từ thời Liên Xô trước đây. Trung Quốc chuyển từ tư duy dựa vào sức mạnh của số đông sang dựa vào sức mạnh của vũ khí hiện đại, sẵn sàng giành chiến thắng trong chiến tranh cục bộ công nghệ cao; phấn đấu đến năm 2020 trở thành cường quốc quân sự. Từ năm 2020 - 2050, quân đội Trung Quốc sánh vai với các cường quốc hàng đầu thế giới, có khả năng tiến hành và giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh ở bất kỳ quy mô nào, bằng bất cứ loại vũ khí nào. Ấn Độ do vị trí địa - chính trị phải đương đầu với các thách thức an ninh từ nhiều phía, chủ trương dành ưu tiên cho chương trình tăng cường tiềm lực quốc phòng, hiện đại hóa quân đội dựa trên cơ sở tổ hợp công nghiệp quốc phòng, đẩy mạnh hợp tác kỹ thuật quân sự đa phương với các nước như Nga, Mỹ, I-xra-en, Pháp, Đức.

Nhóm các nước đồng minh của Mỹ. Nhật Bản kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã nhiều lần điều chỉnh chiến lược quân sự, từng bước phát triển Cục Phòng vệ thành Bộ Quốc phòng, lấy Hiệp ước an ninh Nhật Bản - Mỹ làm cơ sở. Hiện nay, Nhật Bản đang xúc tiến khai thác tiềm lực kinh tế và công nghệ hùng hậu, kể cả công nghệ vũ trụ, phát triển mạnh tổ hợp công nghiệp quốc phòng, coi trọng tâm hiện đại hóa quân đội là không quân, hải quân, hướng tới vai trò cường quốc quân sự, phát triển hệ thống phòng thủ tên lửa nhằm cùng với hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ hình thành hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu. Hàn Quốc đứng trước thách thức từ nhiều phía, đặt mục tiêu hiện đại hóa quân đội theo hướng tinh nhuệ, linh hoạt và cơ động; hiện đại hóa đồng bộ cả lục quân, không quân và hải quân bằng vũ khí công nghệ cao trên cơ sở tổ hợp công nghiệp quốc phòng mạnh được xây dựng theo mô hình của Mỹ. Hàn Quốc đã từng có các đề án “Tầm nhìn tương lai của không quân đến năm 2030”, “Tầm nhìn lục quân đến 2010”, “Tầm nhìn hải quân đến năm 2020”, xây dựng học thuyết quân sự nhằm hóa giải các thách thức trong các thập niên đầu thế kỷ XXI.

Nhóm một số nước trong ASEAN. Từ những năm 90, nhờ sự tăng trưởng kinh tế cao, một số nước ASEAN bắt đầu chương trình hiện đại hóa quân đội do phải đối mặt với các nguy cơ an ninh mới xuất phát từ xung đột địa - chính trị, địa - kinh tế và an ninh nội địa, với mục đích vừa tranh thủ thị trường vũ khí trang bị giá rẻ sau Chiến tranh lạnh, vừa tiếp cận các thành tựu của cuộc cách mạng mới trong quân sự, đa dạng hóa các nguồn cung cấp vũ khí trang bị. Một số nước trong khu vực (In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Xin-ga-po, Phi-lip-pin) hiện đại hóa quân đội để có thể hợp tác với Mỹ trong khi tham gia các cuộc diễn tập quân sự chung. Nguồn cung cấp vũ khí trang bị hiện đại cho một số nước ASEAN khá đa dạng như của Mỹ (máy bay F-16, F-18, F-4, F-5E/F); của Trung Quốc; Ấn Độ; Nga (MiG-29, MiG-27, Su-30, Su-35, tên lửa phòng không, tàu chiến). Nhìn chung, xu hướng đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội của một số nước ASEAN là nhằm tăng cường các khả năng hiện có và tìm kiếm những khả năng mới trong tương lai, trước hết trong lĩnh vực vũ khí của không quân và hải quân.

Thách thức đối với Việt Nam

Việt Nam nằm trong một khu vực đang diễn ra sự cạnh tranh và xung đột địa - chính trị và cũng đang là mục tiêu chống phá của một số thế lực thù địch. Do đó, Việt Nam phải đồng thời thực hiện hai mục tiêu chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, việc tăng cường sức mạnh quân sự là một nhiệm vụ tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Sách Trắng quốc phòng Việt Nam vừa ấn hành năm 2010 đã nêu rõ, quốc phòng Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân. Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lực lượng quân sự và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Việt Nam chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Trong đó, yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định nhất. Đây là khác biệt cơ bản giữa quân đội ta với quân đội nhiều nước. Do đó, Việt Nam không chạy đua vũ trang với bất kỳ nước nào mà chỉ tăng cường sức mạnh quốc phòng để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước./.