Rút quân để ở lại lâu dài

Đinh Lan Hương
16:12, ngày 14-01-2011
TCCSĐT - Ngày 13-1-2011, Phó Tổng thống Mỹ Giô Bai-đơn thực thi chuyến thăm đầu tiên của người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ Mỹ tới I-rắc kể từ khi quốc gia này lập được chính phủ mới sau cuộc bầu cử quốc hội vào đầu năm 2010, để thực hiện một nhiệm vụ quan trọng: chuẩn bị cho các lực lượng quân sự chính thức của Mỹ rút khỏi I-rắc vào cuối năm 2011 nhưng vẫn phải bảo đảm duy trì sự hiện diện lâu dài của Mỹ ở quốc gia này.
 
Vì sao Mỹ phải rút quân ra khỏi I-rắc vào cuối năm 2011?
 
Cuộc chiến tranh I-rắc (năm 2003) tiếp sau cuộc chiến tranh Áp-ga-ni-xtan (2001) là hành động đầu tiên của Mỹ nhằm thực hiện chiến lược hiện diện quân sự tại những vị trí xung yếu nhất, trước hết là Trung Á và Trung Đông, liên quan tới quyền kiểm soát tài nguyên dầu mỏ và khí đốt rất cần cho sự phát triển và thịnh vượng của các quốc gia công nghiệp phát triển trong thế kỷ XXI.
 
Trong chuyên khảo “Chiến lược giành ưu thế toàn diện hay là nền dân chủ bá quyền trong trật tự thế giới mới”, ông Uy-li-am Ăng-đan (F. William Engdahl), nhà nghiên cứu chính trị, lịch sử và kinh tế Mỹ dựa trên các cứ liệu và văn kiện chính thức của Mỹ, đã rút ra nhận định: “Sau khi chính quyền của ê-kíp Tổng thống G.W.Bu-sơ và Phó Tổng thống Đích Che-ni bước vào Nhà Trắng vào tháng 1-2001, việc kiểm soát các mỏ dầu và khí đốt lớn nhất thế giới trở thành hướng ưu tiên chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Cuộc chiến tranh xâm lược I-rắc cũng như việc lật đổ chế độ cầm quyền của Ta-li-ban ở Áp-ga-ni-xtan không hề có liên quan gì với cái gọi là "phát triển dân chủ" ở những quốc gia này, mà chỉ liên quan đến quyền kiểm soát các đường ống dẫn dầu mỏ và khí đốt đi qua Trung Á và Trung Đông”.
 
Nhưng thực tế là “gậy ông lại đập ưng ông”. Chính cuộc chiến tranh Áp-ga-ni-xtan và I-rắc đã đưa nước Mỹ tới bước sa lầy, chưa tìm ra lối thoát hữu hiệu và bị suy giảm sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự. Dưới áp lực của dư luận trong và ngoài nước Mỹ, trước khi rời Nhà Trắng năm 2008, Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đã phải cam kết với Chính phủ ở Bát-đa một lộ trình rút quân khỏi I-rắc vào cuối năm 2011. Còn Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma không có kế sách nào khác là buộc phải thực hiện cam kết này và đó cũng là một trong những yếu tố quyết định đưa ông bước vào Nhà Trắng trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào cuối năm 2008.
 
Theo hiệp định an ninh ký kết giữa Oa-sinh-tơn và Bát-đa cuối năm 2007, toàn bộ các lực lượng vũ trang Mỹ sẽ rời khỏi I-rắc vào cuối năm 2011. Thời gian qua, người Hồi giáo dòng Xi-ai liên tục gây sức ép đối với Thủ tướng Ma-la-ki buộc quân đội Mỹ rời khỏi I-rắc theo kế hoạch. Giáo sĩ cực đoan dòng Xi-ai, ông Mốc-ta-đa An-Xa-đa (Shiite Moqtada al-Sadr), một thế lực có ảnh hưởng lớn trong đời sống chính trị I-rắc, vừa trở về nước sau một thời gian dài sống lưu vong, nhằm hối thúc các tín đồ chống lại sự chiếm đóng của Mỹ bằng mọi phương tiện.
 
Trong điều kiện đó, Mỹ không thể không rút quân. Nhưng rút quân không có nghĩa là Mỹ sẽ không còn hiện diện ở I-rắc, bởi nếu Mỹ không còn ở lại I-rắc thì hàng trăm tỉ USD đổ vào cuộc chiến tranh này cùng với hàng ngàn sinh mạng lính Mỹ chết trận và lợi ích lâu dài của Mỹ ở Vùng Vịnh sẽ tan thành mây khói một cách vô ích.
 
Rút quân là để nhằm ở lại lâu dài tại I-rắc
 
Một trong những nội dung quan trọng nhất trong các cuộc hội đàm giữa Phó Tổng thống Mỹ Giô Bai-đơn với các quan chức cao cấp của I-rắc như Tổng thống Gia-la Ta-ba-ni (Jalal Talbani), Thủ tướng Nu-ri An Ma-li-ki (Nuri al-Maliki), ông I-át An-la-vi (Iyad Allawi), thủ lĩnh khối I-rắc-ui (Iraqiya) giành nhiều phiếu bầu nhất trong cuộc tổng tuyển cử đầu năm 2010 v..v, là tương lai sự hiện diện quân sự của Mỹ tại I-rắc khi lực lượng chính quy sẽ rút hết vào cuối năm 2010. Trong khi đó, Bộ chỉ huy quân sự cấp cao I-rắc cho rằng, các lực lượng quân sự của Mỹ có thể sẽ phải ở lại nước này cho đến khi lực lượng an ninh sở tại có thể tự bảo đảm an ninh vào năm 2020.
 
Trong tình thế đó, Mỹ sẽ phải tìm kế sách sao cho vừa giữ được tiếng rút quân khỏi I-rắc, vừa duy trì sự hiện diện quân sự lâu dài tại quốc gia có vị trí cực kỳ quan trọng đối với chiến lược toàn cầu của Mỹ. Kế sách đó chính là tư nhân hóa các hoạt động an ninh, nghĩa là ký hợp đồng chuyển giao chức năng bảo đảm an ninh cho các công ty quân sự tư nhân. Đây cũng là xu hướng trong chiến lược lâu dài của Mỹ để hiện diện quân sự tại những khu vực nhạy cảm mà quân đội chính quy của họ không thể xuất đầu lộ diện.

Ở Mỹ, công ty quân sự tư nhân là những tổ chức phi chính phủ thực hiện nhiều dịch vụ khác nhau, từ huấn luyện quân nhân đến thực hiện các chiến dịch quân sự nhằm mục tiêu lợi nhuận. Tổng số công ty quân sự tư nhân đã lên tới vài trăm công ty với quân số lên tới 2 triệu người, hoạt động ở 110 nước. Thí dụ điển hình nhất là các công ty quân sự tư nhân “Hulliburton”, “DynCorp”, “Logicon”. “Brown &Root”, “MPRI (Military Professional Resources Inc.) ở Bắc Mỹ; “Control Risk”, “Bechtel”, “ArmorGroup”, “Erinys”, “Sandlie Internatioal” và “International Defence And Security” ở châu Âu. Trong đó, 35 công ty quân sự tư nhân lớn nhất có văn phòng đại diện ở Mỹ.

Vốn thị trường của các công ty quân sự tư nhân đã lên tới 20 tỉ USD và hiện đang có xu hướng phát triển gia tăng loại hình “công nghiệp dịch vụ quân sự tư nhân" này, cụ thể là sự sáp nhập công ty quân sự của Anh “Defence System Limitid (DSL) với công ty quân sự của Mỹ “Armor Holdings”, công ty L-3 sáp nhập với công ty MPRI năm 2000. Trong những năm 1999 và năm 2000, công ty “Armor Holdings” đã mua lại 20 công ty khác trong vòng 10 năm và trở thành một trong 100 công ty quân sự tư nhân mạnh nhất. Tổng khối lượng dịch vụ hằng năm của những công ty đó tăng từ 56 tỉ USD năm 2000 đến 200 tỉ USD vào năm 2010. Hiện nay ở Mỹ đang tiến hành cải cách trên quy mô lớn hệ thống bảo đảm an ninh quốc gia nói chung, trong đó các công ty quân sự tư nhân sẽ được đảm nhận vai trò và được giao nhiệm vụ rất quan trọng.

Các dịch vụ của công ty quân sự tư nhân khá rộng, không chỉ là cung cấp đội quân đánh thuê. Thí dụ, công ty quân sự tư nhân “MPRI” của Mỹ được thành lập năm 1987 chuyên lựa chọn và mua sắm vũ khí trang bị, nghiên cứu soạn thảo chiến lược, học thuyết và giải quyết các nhiệm vụ tình thế, đã từng tổ chức và thực hiện các cuộc diễn tập quân sự cũng như các chiến dịch nhân đạo. Các nhân viên của MPRI đã nhiều lần tham gia các cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột khu vực, các chiến dịch quân sự đặc biệt giúp đỡ chính phủ nhiều nước ở châu Phi, hiện đang tham gia nhiều chương trình xây dựng lực lượng phản ứng nhanh tập thể có khả năng thực hiện "các hoạt động gìn giữ hòa bình và nhân đạo".

Công ty quân sự tư nhân “Dyncorp” cung cấp các dịch vụ bảo đảm an ninh nhằm bảo vệ cho các đại sứ quán Mỹ ở nhiều nước, nhận nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao Mỹ thực hiện các hợp đồng của Liên hợp quốc, phục vụ nhiều tổ chức và đơn vị của Lầu Năm Góc ở nước ngoài. Công ty này đã từng phối hợp với công ty “McDermott Oil” của Mỹ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các kho chứa dầu có tầm quan trọng chiến lược. Trong quá trình chiến dịch "Con cáo sa mạc" (năm 1991), các chuyên gia của công ty “Dyncorp” tiến hành bảo đảm kỹ thuật cho máy bay trực thăng của không quân Mỹ.

Như vậy, việc sử dụng ngày càng phổ biến các công ty quân sự tư nhân trong các cuộc xung đột vũ trang là một xu hướng ổn định và có tính chất lâu dài, làm cho các tổ chức đó có vị thế như là một chủ thể chính trị - quân sự ở những quốc gia mạnh nhất như Mỹ và Anh, mà ở đó nền chính trị quốc gia gắn bó chặt chẽ với các hoạt động kinh doanh. Các công ty quân sự tư nhân sẽ đảm nhận vai trò duy trì sự hiện diện quân sự lâu dài của Mỹ ở I-rắc sau khi các lực lượng quân sự chính quy của chính phủ rời khỏi quốc gia này. Như vậy, trên thực tế, Mỹ sẽ ở lại I-rắc gần như vô thời hạn./.