Chặng đường gian nan

Minh Tâm
16:07, ngày 05-07-2011
TCCSĐT - Ơ-rô (Euro) trở thành đồng tiền chính thức của Liên minh châu Âu (EU) từ ngày 1-1-1999. Ban đầu, mang ý nghĩa của một đồng tiền kế toán, 3 năm sau, ngày 1-1-2002, việc phát hành tiền mặt mới chính thức được thực hiện. Tuy nhiên, sự lớn mạnh của đồng tiền ơ-rô hiện đang đứng trước thách thức mới và nếu EU có vực dậy được vị thế của đồng tiền này như trước đây, chắc chắn nó sẽ phải trải qua một chặng đường dài, nhiều khó khăn, thử thách.

Một thập kỷ trôi qua, không những được chấp nhận ngày càng rộng rãi trong quan hệ tài chính - thương mại thế giới, đồng ơ-rô đã trở thành một đồng tiền dự trữ toàn cầu. Thống kê của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy, đến quý II-2010, đồng ơ-rô chiếm 26,5% tổng dự trữ toàn cầu. Từ 11 nước tham gia ban đầu, hiện nay khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã có tổng cộng 17 quốc gia thành viên, trong đó E-xtô-ni-a (Estonia) là thành viên mới nhất, từ ngày 1- 1- 2011.

Ba thập kỷ “thai nghén”

Bắt đầu từ ý tưởng được cho là “không tưởng” về một châu Âu thống nhất, trải qua nhiều thập kỷ nỗ lực, những người dân ở “lục địa già” đã có thời điểm cảm thấy rất hãnh diện vì những thành tựu đạt được trong việc nhất thể hóa về kinh tế và chính trị. Những gì mà châu Âu gặt hái trên con đường đi tới “Liên bang châu Âu”, được phản ảnh rõ nét nhất ở sự ra đời của đồng tiền chung ơ-rô. Có thể thấy, để có được đồng tiền chung ơ-rô, hơn 3 thập kỷ qua, (từ năm 1969,  Cộng đồng Kinh tế châu Âu bắt đầu đề cập đến mục tiêu tạo ra một đơn vị tiền tệ duy nhất của khu vực), các nước châu Âu đã phải thương lượng, bàn thảo, san sẻ lợi ích và trên hết là phải rất quyết tâm để có được đồng tiền chung này.

Đồng tiền chung ơ-rô cũng chính là biểu tượng cho sự hòa hợp và phát triển kinh tế của châu lục. Tuy nhiên, sau 12 năm đồng ơ-rô được lưu hành trong giới doanh nghiệp, 9 năm đồng ơ-rô xuất hiện trong cuộc sống người dân châu Âu, đồng tiền chung của “lục địa già” ngày nay đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng.

Chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu năm 2008, cuộc khủng hoảng nợ công, khởi phát ở Hy Lạp năm 2010 đã bắt đầu tàn phá các nền kinh tế châu Âu, đồng ơ-rô vì thế mà đứng trước những thách thức nghiêm trọng. Sự kiện E-xtô-ni-a bắt đầu sử dụng đồng ơ-rô kể từ ngày 1-1-2011, phần nào tạo sự hứng khởi, nhưng cũng không làm dịu đi nỗi lo lắng cho số phận đồng ơ-rô và đương nhiên cho cả tương lai của EU.

Trước đó, ngay từ năm 1996, nhà kinh tế Mỹ M. Phrit-men (Milton Friedman) đã không mấy tin tưởng rằng EU sẽ gây dựng được một đồng tiền duy nhất cho cả khu vực. Nguyên nhân là do châu Âu không phải là một thực thể đồng nhất về chính trị, kinh tế, chế độ thuế khóa, xã hội cũng như văn hóa, khu vực đồng ơ-rô sẽ bị đe dọa nghiêm trọng ngay từ khi có những dấu hiệu suy thoái đầu tiên; vì những lợi ích cục bộ, những bất đồng có mầm mống xưa nay sẽ nổi lên cùng một lúc. Điều tồi tệ là kịch bản này đã xảy ra trong năm 2010, đúng như những gì M. Frit-men đã tiên đoán.

Ngoài vấn đề nợ công, thực tế là hiện nay đồng ơ-rô cũng đang phải đối mặt với sự khác biệt về địa lý, kinh tế và hệ thống chính trị giữa các vùng, miền châu Âu. Vùng Bắc Âu bao gồm các nền kinh tế kỹ trị phát triển ở mức độ cao. Sự thịnh vượng của khu vực này có được là nhờ vùng châu thổ Bắc Âu trù phú và hệ thống sông ngòi thanh bình. Lợi thế này mang lại cho các quốc gia nằm dọc hệ thống đường sông ở Bắc Âu một nguồn lực tư bản dồi dào, có một nền giáo dục phát triển, hệ thống hạ tầng hàng đầu thế giới, công nghiệp phát triển… Kết quả là Bắc Âu muốn có một đồng tiền mạnh nhằm thu hút đầu tư để bù đắp chi phí cao và xuất khẩu của các nước Bắc Âu, với hàm lượng giá trị gia tăng lớn, không bị ảnh hưởng bởi một đồng tiền mạnh. Critics warn that the euro zone is about to face a crucial test.

Trái lại, sự bất lợi về địa lý khiến Nam Âu khó có thể là một trung tâm tư bản, đồng thời không có sự thống nhất về chính trị, không có các khu vực “trục lõi”. Sự hội nhập của các nền kinh tế Nam Âu chủ yếu chỉ diễn ra trong từng địa phương. Do không có quy mô lớn, các nền kinh tế Nam Âu phụ thuộc nhiều vào một đồng tiền yếu để thúc đẩy xuất khẩu cạnh tranh và tối đa hóa giá trị của đồng USD có được từ xuất khẩu.

Trung Âu, chủ yếu là các nước thuộc Liên Xô cũ, cũng có những tính toán khác nhau xung quanh việc gia nhập EU. Một số nước, chẳng hạn như Ba Lan, ngoài việc muốn hội nhập tốt hơn với các nước Bắc Âu, đồng thời họ cũng yêu cầu cần có sự ủng hộ bên ngoài về vấn đề quốc phòng để duy trì vị thế. Bên cạnh đó, một số các quốc gia EU khác còn chủ động đứng ngoài Eurozone như Đan Mạch, Thụy Điển và Anh; hoặc các thành viên khác nhau cũng đang tìm cách bảo vệ quyền tự chủ về chính trị (và trong hầu hết các trường hợp cũng là bảo vệ tự chủ tài khóa), chính điều này cũng là nguyên nhân chính gây trở ngại cho đồng ơ-rô.

Có thể nói, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã bộc lộ mặt yếu nhất của Eurozone (chung đồng tiền, nhưng lại độc lập về chính sách tài chính). Và vì thế, khi việc vay nợ ồ ạt để phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, mà không lường hết sự biến đổi bất ngờ của tình hình (khủng hoảng tài chính nổ ra) khiến khu vực rơi vào khó khăn, nhiều nước Eurozone mới hiểu rằng, họ đã và đang “cưỡi trên lưng hổ”.

Kết quả là, khu vực đồng ơ-rô giờ đây đang bị chao đảo mạnh mẽ do khoảng cách chênh lệnh ngày càng tăng về khả năng cạnh tranh giữa các nền kinh tế mạnh và yếu, nhưng lại có đồng tiền chung. Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và kinh doanh (CEBR) cho rằng, nếu không có những thay đổi sâu, mạnh, trong vòng một thập niên tới, cơ may tồn tại của khu vực đồng ơ-rô chỉ là 20%.

Tiếp tục đối mặt với khó khăn

Hiệp ước Li-xbon có hiệu lực từ ngày 1-12-2009, theo đó hợp nhất cơ cấu trụ cột để EU có được những cải cách về thể chế và quyền lực như ngày nay. Trong Hiệp ước Li-xbon có điều khoản gọi là “Không giải cứu” quy định rằng, mỗi thành viên của Eurozone phải tự chịu trách nhiệm với tình hình tài chính công của quốc gia đó. Các thành viên sẽ không phải gánh nợ một phần hay toàn bộ cho các quốc gia khác.

Khi Hy Lạp, Ai-len đứng bên bờ vực phá sản, để bảo vệ đồng ơ-rô khỏi sự đổ vỡ, châu Âu cũng buộc phải phá vỡ quy tắc của mình. Tháng 5-2010, châu Âu chi ra 110 tỉ ơ-rô giúp Hy Lạp, đến tháng 11- 2010, đến lượt Ai-len được tiếp sức 85 tỉ ơ-rô. Để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc cứu trợ. Hội nghị thượng đỉnh của EU kết thúc ngày 17-12-2010 tại Brúc-xen (Bỉ) cũng đã nhất trí sửa đổi một cách hạn chế Hiệp ước Li-xbon. Việc sửa đổi được thực hiện theo hướng cho phép thành lập một quỹ cứu trợ thường trực đối với các quốc gia thuộc Eurozone.

Quỹ này dự kiến sẽ được thành lập vào năm 2013, sau khi quỹ chống khủng hoảng chung hiện nay (trị giá 750 tỉ ơ-rô) của EU và IMF hết hiệu lực. Quỹ sẽ “được kích hoạt trong trường hợp cần thiết để bảo đảm sự ổn định của đồng ơ-rô”. Điều khoản được sửa đổi cũng nhấn mạnh, việc tiến hành trợ giúp tài chính cần thiết thông qua cơ chế này sẽ phải tuân thủ những điều kiện chặt chẽ.

Dù EU đã có rất nhiều nỗ lực, nhưng cho đến nay, mối đe dọa về nợ công vẫn cứ “lơ lửng” trên bầu trời châu Âu với những khó khăn chồng chất về tài chính công tại nhiều nước thành viên. Quyết định sửa đổi điều 136 của Hiệp ước Li-xbon và các biện pháp ứng phó khủng hoảng của EU thời gian qua chỉ mang tính chất chữa cháy, chưa đem lại hiệu quả bền vững. Những nỗ lực của EU nói chung và Eurozone nói riêng trong việc khôi phục hình ảnh và vị thế của đồng ơ-rô được đánh giá là tích cực, nhưng không thể phủ nhận rằng chưa mang lại tác động đủ mạnh.

Có lẽ chưa bao giờ người ta nói nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp, đến sự rạn nứt và khả năng tan rã của Eurozone như hiện nay. Cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu giờ đây còn biến thành cuộc khủng hoảng niềm tin. Thậm chí, Chính phủ Xlô-va-ki-a, nước mới gia nhập Eurozone đầu năm 2009 cũng đã tính đến khả năng rút khỏi Eurozone và quay lại sử dụng đồng nội tệ cu-ron. Xlô-va-ki-a cho rằng, đồng ơ-rô còn bấp bênh và sự đoàn kết trong Eurozone còn lỏng lẻo; các nước lớn trong EU chưa “toàn tâm, toàn ý” giúp các nước nhỏ gặp khó khăn, mà chỉ khư khư giữ lợi ích về mình.

Nhiều ý tưởng cũng đã được đưa ra, ví dụ: châu Âu có thể sẽ để Hy Lạp, nước đang trong tình trạng nghiêm trọng nhất, rút ra khỏi Eurozone, ít nhất là trong một thời gian. Nhiều nhà phân tích cũng không loại trừ trường hợp một nước lớn, chẳng hạn như Đức, quá mệt mỏi với việc cứu trợ, sẽ tách ra khỏi Eurozone để bảo toàn lợi ích quốc gia trước sức ép của người dân nước họ. Nhưng xét thấy hậu quả của vấn đề này có thể còn nghiêm trọng hơn và do vậy, cho tới nay, châu Âu vẫn đang loay hoay tìm giải pháp cho vấn đề nợ công.

Cuộc khủng hoảng nợ công khiến tham vọng của nhiều khối muốn hợp lại để mong có được thành công như đồng ơ-rô trước đây, đã phải chững lại. Ca-na-đa, Mê-hi-cô muốn cùng với Mỹ hợp thành khối tiền tệ Bắc Mỹ, khối này thậm chí có thể mở rộng đến nhóm nước thuộc Mỹ - La-tinh. Khu vực châu Á cũng đã nhiều lần đề cập đến một đồng tiền chung châu Á. Thế nhưng, đồng ơ-rô đang đứng trước nguy cơ tan rã, có thể bởi lãnh đạo châu Âu không thể đưa ra quyết định để giảm được nợ.

Nguyên nhân thì nhiều, nhưng có lẽ có một nguyên nhân quan trọng, đó là trong quá trình phát triển của đồng ơ-rô, lãnh đạo châu Âu đã quá coi trọng đồng ơ-rô như là một sản phẩm của chính trị mà rất ít khi xem xét nó trên phương diện kinh tế. Ngay cả khi châu Âu lâm nguy, nhiều nhà lãnh đạo thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu lại muốn giữ thể diện cho họ hơn là đưa ra biện pháp thực sự để chấm dứt khủng hoảng nợ. Và giờ đây, sự ổn định của đồng ơ-rô đang đứng trước thử nghiệm chưa từng có, tương lai của “con tàu thống nhất” EU cũng trở nên mong manh hơn trước sự “yếu đuối” của đồng ơ-rô.

Hiện nay, bà C.La-gác-đơ (Christine Lagarde), Bộ trưởng Tài chính Pháp, đã được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc của IMF. Liệu IMF có kịp thời giúp bù lại được khả năng xử lý khủng hoảng yếu kém trước đây hay không? Các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu liệu có đoàn kết cùng nhau để vượt qua khó khăn về vấn đề tài khoá hay không, hẳn sẽ không hề đơn giản.

Có lẽ, trước mắt cũng như lâu dài, chìa khóa của vấn đề này lại nằm trong tay Đức, nước có nền kinh tế mạnh nhất EU hiện nay. Đây là thời điểm cần phát huy vai trò nổi bật của Thủ tướng Đức An-giê-la Mec-ken (Angela Merkel). Chỉ có sự kết hợp giữa Đức và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) mới mang lại cơ hội trấn an cho thị trường. Đức có thể thảo luận với ECB và các chính phủ khu vực đồng ơ-rô xem đâu là giải pháp tốt nhất, tin cậy nhất và khả thi nhất; sau đó thuyết phục người dân Đức rằng đó là quyền lợi quốc gia, lâu dài của chính họ. Bởi một khi khu vực đồng ơ-rô tan rã, người thiệt thòi nhất vẫn là trụ cột kinh tế lớn nhất của nhóm. Và rõ ràng, để cứu vãn một liên minh tiền tệ, hơn bao giờ hết, EU cần phải đoàn kết hơn, quyết tâm hơn./.