TCCSĐT - Hội nghị Cấp cao ASEAN 17 và các hội nghị cao cấp liên quan diễn ra tại Hà Nội từ ngày 28 đến ngày 30-10. Tại các hội nghị này, một lần nữa tiếp tục khẳng định những nỗ lực không biết mệt mỏi nhằm xây dựng cộng động ASEAN kế thừa truyền thống, phát huy nội lực, trỗi dậy hướng tới sự phát triển thịnh vượng chung trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Sự đa dạng của khu vực

Ngày nay, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được biết đến là một cộng đồng năng động, ổn định, thân thiện và phát triển với tốc độ nhanh. ASEAN được thành lập trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc ngày 8-8-1967, với mục tiêu thúc đẩy tăng cường hợp tác kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các nước trong khu vực và tạo ra những điều kiện mới để hội nhập quốc tế. Từ 5 thành viên khi thành lập, ngày nay ASEAN đã có 10 thành viên. Năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên ASEAN và từng bước khẳng định vai trò quan trọng của mình. Hiệp hội đã thông qua Tầm nhìn ASEAN 2020, với mục tiêu hướng tới một cộng đồng khu vực hòa bình, ổn định, hài hòa và phát triển thịnh vượng. Năm 2007, Hiến chương ASEAN được ký, là một bước tiến đặc biệt, tạo nền tảng pháp lý và thể chế để ASEAN xây dựng cộng đồng. Năm 2009, tại Hội nghị cao cấp ASEAN 14, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Lộ trình xây dựng cộng đồng ASEAN, bao gồm các kế hoạch tổng thể xây dựng các cộng đồng trụ cột Chính trị - An ninh, Kinh tế và Văn hóa - Xã hội.

Đông Nam Á, về mặt tự nhiên, là một khu vực rất rộng lớn, đa dạng, địa hình bị chia tách thành rất nhiều tiểu khu vực, bao gồm cả lục địa, hải đảo, núi cao, rừng rậm, sông sâu, đồng bằng, đầm hồ và nhiều đới khi hậu đặc trưng khác biệt. Khu vực này là nơi quần cư của hàng trăm tộc người khác nhau với rất nhiều ngữ hệ như: Môn-Khme, Nam đảo, Tày-Thái, Tạng-Miến, Hmông-Dao, Việt-Mường…
 
Với vị trí địa lý, Đông Nam Á chính là cầu nối phương Đông và phương Tây, nhất là do nằm giữa hai đại dương lớn (Thái Bình đương và Ấn Độ dương) nên Đông Nam Á là con đường giao thương chính của thế giới trong lịch sử. Ngoài ra, Đông Nam Á luôn được coi là “ngã tư đường” của nhân loại, nơi không chỉ là vùng đất thiêng liêng, nhiều vàng, ngọc, hương liệu, phong phú các lâm thổ sản, hải sản, trái cây, mà còn là khu vực sinh sống của các cộng động dân cư “bí hiểm”, những con người thành thạo trồng trọt, thuần dưỡng gia cầm, gia súc, can trường trên biển và đồng thời cũng là điểm đến của nhiều thương nhân, nhiều nhà truyền giáo và thám hiểm. Chính vì lẽ đó, tại khu vực này, từ xưa đến nay có sự hiện diện rực rỡ của hầu như tất cả mọi nền văn hóa của thế giới, như Ấn Độ, Trung Hoa, Ả-rập, châu Âu... Và, mọi tôn giáo lớn của nhân loại đều đã và đang tồn tại, phát triển ở đây như: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Đạo giáo, Khổng giáo… Cùng với ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục, tập quan và tôn giáo, Đông Nam Á đã tạo nên một khung cảnh văn hóa, nghệ thuật truyền thống vô cùng đa dạng và phong phú.

Chính sự đa dạng của tự nhiên, sự trầm tích lịch sử và sự tích hợp của bản sắc tộc người, ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa và xã hội; cùng với nó là những di sản văn hóa truyền thống vật thể và phi vật thể, những khuôn mẫu luân lý và chiến lược sống đã tạo nên những bản sắc đặc trưng của văn hóa khu vực vừa đa dạng, vừa hài hòa, thống nhất.

Nền văn minh lúa nước

Các nhà khoa học khẳng định, Đông Nam Á cổ là cái nôi của một nền văn minh phát triển rực rỡ của nhân loại. Theo họ, những đặc trưng cơ bản của nền văn minh này chính là: trồng lúa nước; thuần dưỡng gia súc, gia cầm; sử dụng công cụ kim khí; thạo nghề biển; chế độ mẫu hệ và vai trò quan trọng của phụ nữ; tổ chức xã hội theo mô hình làng xã trồng lúa nước; bái vật giáo; thờ cúng tổ tiên và thổ thần; tục mai táng trong chum (gốm hoặc đá); ngôn ngữ linh động, sáng tạo; dệt vải in hoa bằng sáp ong; dàn nhạc có nhiều bộ gõ…

Trong các đặc trưng của nền văn minh Đông Nam Á cổ xưa mà các nhà khoa học chỉ ra, trồng lúa nước là đặc trưng quan trọng nhất và các đặc trưng khác hầu như xoay quanh hoặc bổ sung cho đặc trưng này. Trồng lúa nước không đơn thuần là hoạt động lao động sản xuất tạo ra sản phẩm lương thực nuôi sống con người, mà chính dạng lao động sản xuất mang tính cộng đồng này cũng đồng thời tạo nên kết cấu làng xã, tổ chức xã hội, mô hình gia đình và lối sống, nếp nghĩ của xã hội truyền thống. Nói một cách tổng quát, văn minh lúa nước đã tạo ra đặc trưng văn hóa chung của cả khu vực.

Nghề trồng lúa nước của cư dân Đông Nam Á không chỉ thành công rực rỡ trong lịch sử, mà cho đến nay, Đông Nam Á vẫn là cộng đồng quan trọng nhất trên thế giới trong việc trồng lúa gạo, ăn cơm nấu bằng gạo, cung cấp lúa gạo cho cả thế giới, và bản thân họ dù đã trải qua vô vàn thăng trầm của lịch sử thì lúa gạo vẫn là lượng thực chính nuôi sống họ.

Văn hóa - xã hội truyền thống căn bản

Đông Nam Á là một cộng đồng các quốc gia độc lập và đa dạng, nhưng lịch sử cho thấy, ngay từ thế kỷ thứ nhất (sau Công nguyên), khi các quốc gia dân tộc hình thành và cho đến thế kỷ thứ 15, các quốc gia trong khu vực vẫn mang những đặc trưng văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế tương đồng nhau. Đó là do sự ảnh hưởng một cách toàn diện văn hóa Ấn Độ ở hầu hết các nước. Sự ảnh hưởng ấy sâu sắc đến nỗi không ít người ở nơi khác đến cứ nhầm lẫn nhiều quốc gia trong số các quốc gia này chỉ là tiểu quốc của Ấn Độ rộng lớn. Thông qua những thương nhân, các nhà truyền giáo, ngôn ngữ, chữ viết, các mô hình xã hội, tư tưởng, tôn giáo, văn học, nghệ thuật Ấn Độ xâm thực Đông Nam Á một cách mềm dẻo, hòa bình và nhanh chóng. Chỉ một thời gian ngắn, các quốc gia Đông Nam Á được cấu trúc lại như thể phiên bản của Ấn Độ. Đó là nhà nước được tổ chức theo nhà nước Ấn Độ; tôn giáo là Ấn Độ giáo hoặc Phật giáo; chữ viết chính thống là chữ sanskrit (phạn); đền thờ làm theo mô hình đền thờ Ấn Độ và thờ các vị thần Ấn Độ; những bản kinh, trường ca, vũ điệu, thánh ca của Ấn Độ trở thành tài sản chung, được cư dân Đông Nam Á truyền tụng, tôn thờ.

Nhìn chung, từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ XV, Đông Nam Á trở thành một vùng văn hóa Ấn thuần nhất mà những người phương Tây thường gọi là “Đông Ấn”, nghĩa là một vùng của Ấn Độ. Điều này cũng làm nên bản sắc thống nhất của văn hóa - lịch sử Đông Nam Á, bản sắc căn bản văn hóa Ấn Độ. Mặc dù sự ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện của văn hóa Ấn Độ chỉ kéo dài trong 15 thế kỷ nhưng những dấu ấn, di sản của nó để lại thì vẫn rực rỡ không thể phai nhòa cho đến tận ngày nay.

Sự hội nhập của Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia Đông Nam Á, thế nhưng vào đầu Công nguyên khi các quốc gia trong khu vực hình thành nhà nước riêng của mình và có chung chữ viết, đồng thời, văn hóa cùng chịu chung ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ thì Việt Nam (miền Bắc) đang chìm đắm trong thời kỳ Bắc thuộc. Suốt 10 thế kỷ, Việt Nam bị xâm chiếm, bị xóa tên, trở thành quận, huyện của Trung Quốc và dĩ nhiên bị các thế lực xâm lược tìm mọi thủ đoạn để đồng hóa. Xã hội Việt Nam khi đó, cả văn hóa - xã hội, chính trị - kinh tế... được cấu trúc theo mô hình Nho giáo.

Nhưng dân tộc ta có sức sống vô cùng kỳ lạ. Sau 1000 năm Bắc thuộc, Đại Việt đã trỗi dậy đầy hào hùng, quyết liệt và ngay khi giành được độc lập (thế kỷ XI) dân tộc ta đã trở về hội nhập với cộng đồng Đông Nam Á cội rễ của mình. Và từ đó, Phật giáo, một tôn giáo quan trọng của khu vực, ngày càng phát triển rực rỡ trên lãnh thổ Đại Việt và trở thành quốc giáo - nơi nương tựa tinh thần của cả dân tộc ta suốt chiều dài lịch sử. Từ một quốc gia “Khổng giáo”, dân tộc ta gia nhập trở lại với cộng đồng văn hóa khu vực cội nguồn của mình và cùng với sự trưởng thành hùng mạnh, Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò to lớn của mình trong cộng đồng khu vực.

Sự biến đổi, hội nhập và phát triển của cộng đồng Đông Nam Á

Từ sau thế kỷ XV, các nước Đông Nam Á bị cuốn vào những dòng xoáy lớn của lịch sử. Hàng loạt quốc gia, tiểu vương quốc cổ hùng mạnh với những nền văn hóa rực rỡ hơn 15 thế kỷ đã không chịu nổi những biến thiên của thời cuộc, nhanh chóng tan rã, nhường chỗ cho sự ra đời các quốc gia, các tiểu vương quốc mới với nhiều chủ nhân văn hóa mới. Đó sự di cư của các tộc người Thái, Tạng, Miến, Hmông, Dao từ nam Trung Hoa xuống; là sự xuất hiện của các quốc gia dân tộc mới như Thái, Miến, Lào, Việt...

Đặc biệt, cùng với sự xuất hiện những quốc gia dân tộc là sự xuất hiện của những sắc màu tôn giáo mới với những nền văn hóa mới vừa đa dạng, lạ lùng, vừa rất khác biệt. Đó là, cùng với sự hiện diện truyền thống của Ấn Độ giáo, sự xuất hiện quyết liệt của màu trắng Hồi giáo ở mọi quốc gia đảo quốc (In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Bru-nây, Thái Lan); sự xuất hiện của Phật giáo tiểu thừa (Lào, Thái Lan, Căm-phu-chia, Mi-an-ma, Việt Nam); sự xuất hiện của Khổng giáo (Việt Nam, Xin-ga-po), và sự xuất hiện của Thiên Chúa giáo (Việt Nam, Phi-lip-pin)...

Như thế, Đông Nam Á sau 15 thế kỷ thống nhất trong đa dạng văn hóa đã bước vào một thời kỳ có những biến đổi vô cùng mạnh mẽ, trong khung cảnh vừa ổn định, vừa biến đổi, vừa hội nhập. Ổn định mà không xơ cứng, biến đổi mà vẫn lưu giữ, hội nhập mà càng rạng rỡ bản sắc.

Đông Nam Á - ASEAN

Sau 5 thế kỷ đầy biến động, bước sang thế kỷ XX Đông Nam Á đã vươn lên mạnh mẽ, với nền tảng văn hóa truyền thống của khu vực bền vững, tràn đầy nội lực. Với sức sống của các dân tộc, bản lĩnh của tộc người và bản sắc văn hóa khu vực, nơi “cầu nối” thông thương, nơi “ngã tư đường” di chuyển của nhân loại, Đông Nam Á đã tự tin trỗi dậy, khẳng định vị thế của mình. Thế kỷ XXI đang chứng kiến Đông Nam Á, một lần nữa lại trở thành khu vực lịch sử - văn hóa đầy tiền năng, thống nhất trong đa dạng, như chính nó từng tồn tại nhiều thế kỷ rực rỡ trong lịch sử nhân loại.

Hội nghị cấp cao ASEAN và các hội nghị cấp cao liên quan (gồm 11 hội nghị) lần này là dịp để ASEAN đánh giá một cách toàn diện những kết quả hợp tác phát triển trong bản thân khối và các đối tác, trên cơ sở đó định hướng ưu tiên cho bước phát triển tiếp theo. Tại hội nghị lần này, các nhà lãnh đạo ASEAN và lãnh đạo các đối tác sẽ trao đổi, đề ra các phương hướng và biện pháp nhằm đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ toàn diện, cùng có lợi, vì hòa bình, ổn định phát triển của khu vực và trên thế giới./.