Dự án Luật Thủ đô cần được tiếp tục nghiên cứu để đảm bảo tính hợp lý, khả thi
TCCSĐT - Chiều 4-11, Quốc hội nghe trình bày Tờ trình dự án Luật Thủ đô và Báo cáo thẩm tra dự án Luật này của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội. Dự án Luật đã được chuẩn bị công phu, theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cũng nêu một số điểm cần tiếp tục nghiên cứu trong việc xây dựng, ban hành Luật Thủ đô.
Dự thảo Luật Thủ đô quy định về 3 nhóm nội dung lớn: những vấn đề chung về vị trí, vai trò của Thủ đô, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển Thủ đô, trách nhiệm của Thủ đô với cả nước...; một số chính sách đặc thù trong xây dựng, phát triển, quản lý Thủ đô; trách nhiệm xây dựng, phát triển, quản lý Thủ đô.
Dự thảo Luật Thủ đô được thiết kế gồm 4 chương 35 Điều.
Ủy ban Pháp luật tán thành với chủ trương cần ban hành một đạo luật với những cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện cho việc xây dựng, phát triển Thủ đô Hà Nội. Dự án Luật đã được chuẩn bị công phu, theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Các tài liệu trong hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị khá đầy đủ và có chất lượng.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, Ủy ban Pháp luật nhận thấy việc xây dựng, ban hành Luật Thủ đô cần chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất, Hà Nội là Thủ đô của cả nước, đồng thời là đơn vị hành chính cấp tỉnh, vì thế, tổ chức cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền thành phố Hà Nội cũng giống như các địa phương khác là phải phù hợp quy định của Hiến pháp về nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta. Việc đặt ra các cơ chế, chính sách đặc thù cho Thủ đô phải bảo đảm không trái với Hiến pháp, không tạo ra một thiết chế độc lập, thiếu sự gắn kết về nghĩa vụ, trách nhiệm của Thủ đô với Trung ương và với các địa phương khác. Đây cũng là yêu cầu đã được xác định rõ tại Nghị quyết số 15/NQ-TW của Bộ chính trị “… xây dựng một số cơ chế, chính sách đặc thù cho Hà Nội trên nguyên tắc bảo đảm quy hoạch và quan hệ phối hợp ngành – lãnh thổ và quan hệ giữa các địa phương trong cả nước”. Vì thế, không thể quy định giao cho “Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội xây dựng, trình Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn liên quan đến các cơ chế, chính sách đặc thù quy định tại Chương II của Luật này mà chưa được pháp luật quy định” (khoản 1 Điều 27); hay quy định về “công dân danh dự Thủ đô” (khoản 1 Điều 7) v.v…
Thứ hai, Hà Nội là Thủ đô của cả nước, vì vậy, Hà Nội cần phải được bảo đảm đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng, dịch vụ, quốc phòng, an ninh để làm tròn chức năng Thủ đô của cả nước. Uỷ ban pháp luật tán thành cần có một số cơ chế, chính sách đặc thù đối với Hà Nội để có thể khai thác tiềm năng, phát huy thế mạnh nhằm phát triển Thủ đô xứng đáng là bộ mặt của cả nước. Tuy nhiên, những cơ chế, chính sách đặc thù phải bảo đảm các yêu cầu sau:
Một là, các cơ chế, chính sách đặc thù phải được xây dựng dựa trên đặc điểm Hà Nội là Thủ đô của cả nước. Nhiều quy định trong dự thảo Luật chưa phản ánh được tính đặc thù trong cơ chế, chính sách dành cho Hà Nội với tư cách là Thủ đô của cả nước; chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể cho việc phát triển và quản lý của riêng Thủ đô. Nhiều quy định đều có thể áp dụng cho cả các địa phương khác; chẳng hạn, quy định về mục tiêu xây dựng, phát triển Hà Nội (Điều 3); quản lý không gian kiến trúc, cảnh quan và trật tự xây dựng (Điều 12); quản lý và bảo vệ môi trường (Điều 20) v.v…
Hai là, các cơ chế, chính sách đặc thù áp dụng cho Hà Nội có thể khác so với quy định mà các đạo luật đã được Quốc hội ban hành, vì vậy, việc quy định về các cơ chế, chính sách đó phải do Quốc hội thực hiện chứ không thể ủy quyền cho cơ quan khác ban hành.
Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù đối với Hà Nội không đồng nghĩa với việc chỉ lấy thẩm quyền của Trung ương để phân cấp cho Hà Nội mà cũng cần nghiên cứu để xác định có những vấn đề tuy là của Hà Nội, nhưng Trung ương cần phải quyết định, cần đầu tư nhằm tạo điều kiện cho Hà Nội phát triển, giữ vai trò là Thủ đô của cả nước.
Bốn là, cùng với việc đặt ra cho Hà Nội một số cơ chế, chính sách đặc thù theo hướng mở hơn so với các địa phương khác, trong Luật cũng cần phải đặt ra các quy định mang tính ràng buộc, kiểm soát chặt chẽ hơn như quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật được nêu trong Tờ trình của Chính phủ.
Thứ ba, các cơ chế, chính sách đặc thù đặt ra cho Hà Nội ngoài việc phải bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, còn cần phải bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Những quy định đặc thù chỉ nên đặt ra khi chứng minh được tính hợp lý, hiệu quả và khả thi. Đồng thời, cũng chỉ nên quy định những cơ chế, chính sách có tính ổn định lâu dài, còn đối với những cơ chế, chính sách chỉ cần triển khai thực hiện trong một thời gian nhất định thì không nên điều chỉnh trong Luật mà nên để quy định trong các văn bản thường niên của Quốc hội.
Thứ tư, một số tồn tại trong xây dựng, quản lý và phát triển Thủ đô thời gian qua có nguyên nhân do công tác thi hành pháp luật chưa nghiêm. Những nguyên nhân này cần sớm có giải pháp khả thi để khắc phục, nhưng trước hết và chủ yếu là cần chấn chỉnh, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành pháp luật chứ không phải là sửa đổi thể chế dưới hình thức ban hành cơ chế, chính sách đặc thù;
Thứ năm, dự án Luật Thủ đô, được xây dựng căn cứ vào Nghị quyết số 15/NQ-TW của Bộ chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001 - 2010. Đến nay, bối cảnh, tình hình kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là với việc mở rộng địa giới năm 2008 đã làm cho tình hình kinh tế - xã hội của Thủ đô thay đổi cơ bản, dẫn đến “một số mục tiêu, phương hướng và biện pháp cần phải xác định lại cho phù hợp với yêu cầu phát triển Thủ đô trong tình hình mới” (1). Do đó, nhiều ý kiến cho rằng, trước hết cần báo cáo và đề nghị Bộ Chính trị cho tiến hành tổng kết Nghị quyết này để đánh giá việc thực hiện và xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn tới làm cơ sở cho việc xây dựng Luật Thủ đô.
(1) Trang 3 Tờ trình số 133/TTr-CP ngày 30 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Liệu cuộc chiến tiền tệ có trở thành cuộc chiến thương mại?  (05/11/2010)
Nghị quyết 36 thể hiện tư duy đổi mới của Đảng về công tác người Việt Nam ở nước ngoài  (04/11/2010)
Thông cáo số 11, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII  (04/11/2010)
Chỉ như “hạt muối bỏ biển”  (04/11/2010)
Một số cán bộ lãnh đạo nghỉ hưu  (04/11/2010)
Thay đổi thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh  (04/11/2010)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm