TCCS - Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, là trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ và là trái tim của cả nước. Với định hướng phát triển Thủ đô “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”, việc triển khai Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, nâng cao tỷ lệ và chất lượng đô thị hóa là vấn đề cần thiết, cấp bách. Để đạt được mục tiêu trên, việc đồng bộ cơ chế, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn này đóng vai trò quan trọng, là cơ sở, chỉ dẫn cho công tác quy hoạch và đô thị hóa tại Hà Nội.

Chính sách đô thị hóa và hiện đại hóa tại Việt Nam

Sau gần 40 năm đổi mới, hệ thống đô thị trên cả nước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Đến tháng 12-2023, cả nước có 902 đô thị; trong đó có 2 đô thị đặc biệt, 22 đô thị loại 1, 36 đô thị loại 2, 45 đô thị loại 3, 94 đô thị loại 4 và 703 đô thị loại 5; với tỷ lệ đô thị hóa cả nước khoảng 42,7%. Không gian đô thị được mở rộng; hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ và hiệu quả hơn; chất lượng sống của cư dân đô thị từng bước được nâng cao. Công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị tại Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đô thị thực sự trở thành hạt nhân tăng trưởng, động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong mỗi địa phương, mỗi vùng, miền và cả nước. Kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng ở mức cao, đóng góp khoảng 70% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của cả nước. Đồng thời, hình thành cực tăng trưởng kinh tế và trung tâm đổi mới sáng tạo; khoa học - công nghệ; giáo dục - đào tạo tại các đô thị lớn, nhất là tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (1).

Mục tiêu đô thị hóa trong thời gian tới là đẩy mạnh tốc độ và nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới, hình thành một số đô thị, chuỗi đô thị động lực thông minh kết nối với khu vực và trên thế giới. Hướng tới mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 1.000 - 1.200 đô thị trên toàn quốc, đồng thời hình thành một số trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế, giáo dục và đào tạo, văn hóa cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Bên cạnh đó, kinh tế khu vực đô thị đóng góp vào GDP cả nước khoảng 85%, đồng thời xây dựng mạng lưới đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và 3 - 5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế vào năm 2030. Tầm nhìn đến năm 2045, tỷ lệ đô thị hóa thuộc nhóm trung bình cao của ASEAN và khu vực châu Á. Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền, có khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, kiến trúc tiêu biểu giàu bản sắc, xanh, hiện đại, thông minh. Xây dựng được ít nhất 5 đô thị đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với mạng lưới khu vực và quốc tế. Cơ cấu kinh tế khu vực đô thị phát triển theo hướng hiện đại với các ngành kinh tế xanh, kinh tế số chiếm tỷ trọng lớn (2).

Song song với quá trình đô thị hóa, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng được chú trọng đẩy mạnh. Ngày 22-7-2024, Nghị quyết số 111/NQ-CP, “Về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17-11-2022, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, “Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã được Chính phủ ban hành. Việc ban hành Nghị quyết số 111/NQ-CP được xây dựng trên cơ sở bám sát quan điểm, mục tiêu nêu trong Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17-11-2022,  Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, nhằm bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động. Chương trình hành động của Chính phủ là căn cứ để các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai quyết liệt, hiệu quả, phấn đấu đạt được cao nhất các mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 29-NQ/TW.

Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò và nội dung của chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xác định việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nội dung lãnh đạo quan trọng của các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương; gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng ngành và từng cấp.

Về mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD; GNI bình quân dầu người theo giá hiện hành đạt trên 7.000 USD. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 50%; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 40 quốc gia dẫn đầu thế giới. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội dưới 20%; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%; tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động được đào tạo kỹ năng số cơ bản đạt trên 80% (3). Đặc biệt, Việt Nam đặt mục tiêu thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN về năng lực cạnh tranh công nghiệp; tỷ trọng công nghiệp đạt trên 40% GDP; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt trên 45%; giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, chế biến bình quân đầu người đạt trên 2.000 USD. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ đạt trên 50% GDP, trong đó du lịch đạt 14 - 15% GDP (4). Hình thành được một số tập đoàn, doanh nghiệp công nghiệp trong nước có quy mô lớn, đa quốc gia, có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn; xây dựng và phát triển được một số cụm liên kết ngành công nghiệp trong nước có quy mô lớn, có năng lực cạnh tranh quốc tế; làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp.

Hà Nội nâng cao chất lượng và tỷ lệ đô thị hóa, phát triển Thủ đô “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”

Với vai trò là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, là trung tâm lớn về kinh tế - xã hội của cả nước, Hà Nội có trách nhiệm cao trong việc thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24-1-2022, của Bộ Chính trị, “Về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Theo đó, thành phố Hà Nội đã tích cực triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW thông qua các chương trình hành động và kế hoạch do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ban hành, thống nhất các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững; giao các sở, ngành hoàn thiện thể chế, chính sách tạo thuận lợi cho quá trình đô thị hóa.

Tại Kế hoạch số 216/KH-UBND, ngày 21-8-2023, của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, “Về thực hiện chương trình hành động số 25-CTR/TU, ngày 16-3-2023, của Thành ủy Hà Nội thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24-1-2022, của Bộ Chính trị, “Về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Hà Nội đặt mục tiêu phấn đấu tỷ lệ đô thị hóa dự kiến đến năm 2030 đạt khoảng 65 - 75%, đồng thời xây dựng 2 - 3 khu đô thị mới theo định hướng đô thị thông minh, 3 - 5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế (5). Bên cạnh đó, Chương trình phát triển đô thị thành phố Hà Nội giai đoạn đến năm 2035 cũng đặt ra mục tiêu tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2035 toàn thành phố đạt 60 - 70%. Tuy nhiên, tỷ lệ đô thị hóa toàn thành phố hiện nay đạt khoảng 49,1%.

Cũng theo chương trình, Hà Nội dự kiến điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập mới quận, phường với số lượng là 16 quận (12 quận hiện có và 4 huyện Hoài Đức, Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì dự kiến thành lập quận). Danh mục quận này được thực hiện theo đề án, kế hoạch sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thành phố Hà Nội giai đoạn đến năm 2035, bảo đảm phù hợp với quy hoạch Thủ đô, điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô, quy hoạch nông thôn, quy hoạch đô thị; xác định rõ đối tượng, lộ trình sắp xếp và bảo đảm sự đồng thuận của nhân dân. Chương trình đặt ra chỉ tiêu về mật đô dân số toàn đô thị của Hà Nội đạt trên 3.000 người/km2; mật độ dân số trong khu vực nội thành, nội thị, thị trấn giai đoạn đến năm 2035 đạt 12.000 người/km2. Chỉ tiêu đặt ra về diện tích xây dựng đô thị trong khu vực nội thành đến năm 2035 (bao gồm tổng diện tích 12 quận và 4 huyện Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Hoài Đức) là 540km2 (không bao gồm diện tích mặt nước, cây xanh phòng hộ, hành lang thoát lũ, đất quốc phòng - an ninh). Khu vực các đô thị còn lại sẽ theo định hướng Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065 được phê duyệt (6).

Giải pháp hàng đầu nhằm đạt các mục tiêu Nghị quyết số 06-NQ/TW được chỉ rõ là hoàn thiện thể chế, chính sách tạo thuận lợi cho quá trình đô thị hóa, quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững. Nghị quyết số 06-NQ/TW cũng chỉ rõ cần xây dựng và thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách để phát triển Thủ đô Hà Nội trở thành các đô thị hiện đại, thông minh, dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa, liên kết vùng đô thị. Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị bền vững cũng đã được Nghị quyết số 06-NQ/TW đặt ra và được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của thành phố Hà Nội.

Bên cạnh đó, vừa qua, Quốc hội thông qua Luật Thủ đô (sửa đổi), đồng thời cho ý kiến đối với Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065. Đây là điều kiện thuận lợi để hoàn thiện đồng bộ định hướng và cơ sở thực hiện định hướng phát triển Thủ đô. Luật Thủ đô (sửa đổi) cùng các đồ án quy hoạch lớn của thành phố được kỳ vọng sẽ tạo khuôn khổ pháp lý cho việc phân định khu vực bảo tồn đúng nghĩa, bảo vệ giá trị lịch sử về Thăng Long - Hà Nội hay các công trình kiến trúc quan trọng, có yếu tố lịch sử. Các khu vực còn lại sẽ được áp dụng mô hình đầu tư cải tạo theo hướng đô thị hiện đại, không để hiện trạng cải tạo, cơi nới tự phát, không theo tiêu chuẩn quy hoạch của đô thị lớn như hiện nay.

Bên cạnh việc hoàn thiện các đồ án quy hoạch lớn, định hướng phát triển tổng thể và dài hạn cho Thủ đô, các đơn vị đã và đang tập trung đẩy nhanh tiến độ lập các quy hoạch liên quan chỉnh trang, tái thiết đô thị. Trong đó, theo yêu cầu, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố, ủy ban nhân dân của các quận, huyện, thị xã cùng các sở, ban, ngành đang tập trung hoàn thiện quy hoạch chi tiết cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ; các đồ án thiết kế đô thị, quy hoạch chi tiết các khu vực không gian chức năng, hạ tầng quan trọng của thành phố; triển khai lập danh mục công trình kiến trúc có giá trị, lập các quy chế, quy định quản lý quy hoạch và kiến trúc có liên quan… Thành phố cũng đã khởi công Dự án đầu tư xây dựng đường vành đai 4 - vùng Thủ đô Hà Nội;  phối hợp chặt chẽ với các tỉnh liên quan, nỗ lực đưa dự án hoàn thành đúng kế hoạch, mở ra các hướng kết nối, không gian mới phát triển kinh tế - xã hội, đô thị không chỉ cho Hà Nội mà cả vùng Thủ đô. Ngoài ra, Hà Nội tiếp tục đẩy mạnh đầu tư xây dựng phát triển đô thị phía Bắc theo Quy hoạch chung để tiến tới hình thành thành phố phía Bắc với hạt nhân chính là quận Đông Anh trong giai đoạn đến năm 2045. Bên cạnh đó, đẩy mạnh đầu tư xây dựng phát triển đô thị tại Hòa Lạc, Xuân Mai để tiến tới hình thành thành phố phía Tây trong giai đoạn đến năm 2045; đẩy mạnh đầu tư xây dựng phát triển đô thị tại khu vực Phú Xuyên, Thường Tín để tiến tới hình thành thành phố phía Nam trong giai đoạn đến năm 2045./.

-----------------

(1), (2) Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24-1-2022, của Bộ Chính trị, “Về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”

(3), (4) Nghị quyết số 111/NQ-CP, ngày 22-7-2024, của Chính phủ, “Về Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17-11-2022, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, “Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”

(5) Bảo Hân: “Nâng “chất” và “lượng” đô thị hóa Hà Nội”, Báo Hà Nội mới điện tử, ngày 29-5-2024, https://hanoimoi.vn/nang-chat-va-luong-do-thi-hoa-ha-noi-667687.html

(6) “Hà Nội phấn đấu đến năm 2035 tỷ lệ đô thị hóa đạt từ 60 - 70%”, Cổng thông tin điện tử Bộ Xây dựng, ngày 23-9-2024, https://moc.gov.vn/tl/tin-tuc/82074/ha-noi-phan-dau-den-nam-2035-ty-le-do-thi-hoa-dat-tu-60-70.aspx