Bảo đảm an ninh thu nhập cho người cao tuổi Việt Nam
TCCS - Là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức khi không ít người cao tuổi gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm để nâng cao thu nhập. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh cần “chuẩn bị điều kiện thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số”(1). Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm an ninh thu nhập cho người cao tuổi là nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra hiện nay đối với nước ta.
1- Theo một số nghiên cứu khoa học(2), an ninh thu nhập(3) liên quan đến mức thu nhập mà mỗi người bảo đảm được nhận, bao gồm mức thu nhập đầy đủ ở hiện tại và những dự báo thu nhập trong tương lai, trong suốt quá trình làm việc đến khi nghỉ hưu hoặc trước các rủi ro bệnh tật. An sinh xã hội, lương hưu, tiết kiệm, việc làm và sức khỏe là các trụ cột chủ yếu, quan trọng để giúp một người tích lũy, tạo được thu nhập bảo đảm khi về già. An ninh thu nhập (ANTT) quan trọng đối với cả xã hội và nền kinh tế. Nếu mọi người có thu nhập ổn định thì sẽ giúp ngăn ngừa tình trạng nghèo đói và tránh các nguy cơ bị đối xử bất bình đẳng, đồng thời tạo điều kiện cho người dân đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế đất nước.
Bảo đảm ANTN cho người cao tuổi được tiếp cận dựa trên việc thực hiện quyền con người về an sinh xã hội. Các trụ cột quan trọng bảo đảm thu nhập cho người cao tuổi được xác định trên chính sách, bảo trợ xã hội với lương hưu/hưu trí và công việc/việc làm với sức khỏe/chăm sóc sức khỏe. Bảo đảm ANTN cho người cao tuổi là trạng thái duy trì sự an toàn, ổn định các khoản thu nhập nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của người cao tuổi và các chi phí y tế (các nguồn thu nhập của người cao tuổi, bao gồm lương hưu, phúc lợi xã hội, thu nhập từ việc làm, tiết kiệm, hỗ trợ từ gia đình và cộng đồng...).
Để bảo đảm ANTN cho người cao tuổi, Nhà nước sử dụng công cụ luật pháp, chính sách nhằm bảo đảm cuộc sống cho người cao tuổi và ngăn ngừa họ rơi vào tình trạng đói nghèo và bị đối xử bất bình đẳng. Bốn nhóm chính sách chủ yếu để bảo đảm thu nhập của người cao tuổi là chính sách an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội), chính sách thị trường lao động (chính sách việc làm, tín dụng tạo việc làm, thông tin thị trường lao động), chính sách tài chính (thuế/lãi suất tiết kiệm/lợi tức), chính sách chăm sóc sức khỏe (chi phí khám, chữa bệnh/chăm sóc dưỡng lão).
Về an sinh xã hội: cấu phần thu nhập cơ bản nhất từ an sinh xã hội là lương hưu - khoản thu nhập được bảo hiểm xã hội hoặc các quỹ hưu trí chi trả cho người lao động khi đủ các điều kiện nghỉ hưu, hoặc các khoản trợ cấp mất sức. Các chính sách trợ giúp xã hội khác (còn gọi là lương hưu xã hội) thường ở mức tối thiểu, rất thấp. Ngoài ra còn các khoản trợ cấp xã hội khác liên quan chi phí sinh hoạt, như trợ giá tiền điện, nước, nhà ở (nếu có)... Tỷ lệ người cao tuổi được hưởng lương hưu trong dân số càng cao thì mức độ bảo đảm an sinh cho người cao tuổi trên khía cạnh thu nhập càng lớn. Chính sách bảo hiểm xã hội là trụ cột để bảo đảm ANTN cho người dân khi về già; ngoài ra còn có các chính sách trợ giúp xã hội nhằm hỗ trợ, bù đắp vào khoảng trống cho các đối tượng vì nhiều lý do khác nhau không tham gia, không có khoản thu nhập từ lương hưu bảo hiểm xã hội hoặc các quỹ hưu trí khác, cũng như các nguồn thu nhập bảo đảm khác.
Về việc làm: Người cao tuổi tham gia hoạt động kinh tế, có việc làm, tạo ra thu nhập sẽ đóng góp quan trọng trong bảo đảm ANTN cho bản thân, gia đình và xã hội. Dưới góc độ bảo đảm ANTN, có thể chia thành 2 nhóm việc làm người cao tuổi: 1- Người cao tuổi làm việc vì sở thích và đam mê, vì mong muốn cống hiến, đóng góp cho xã hội, giúp đỡ, hỗ trợ con cháu (thu nhập từ việc làm là nguồn thu nhập thứ yếu, mang tính bổ trợ, đóng góp thêm vào thu nhập từ nguồn lương hưu hay từ các nguồn tiết kiệm và đầu tư khác); 2- Người cao tuổi không có lương hưu, không thuộc đối tượng trợ giúp xã hội, không có tích lũy hay các nguồn thu nhập hỗ trợ từ gia đình, thu nhập từ việc làm là nguồn sống duy nhất, đặc biệt quan trọng. Do đó, các chính sách can thiệp là rất cần thiết để hỗ trợ các nhóm lao động cao tuổi này có việc làm và được làm việc.
Về tiết kiệm và đầu tư: Theo quy luật thu nhập của vòng đời, người lao động nào cũng có thời kỳ thu nhập dương và có khả năng tích lũy cho tuổi già. Đại bộ phận người dân đều có tích lũy nhất định, nhưng rất khác nhau giữa các nhóm thu nhập, người giàu, khá giả và nhóm dân cư thu nhập thấp, người nghèo.
Các chính sách kinh tế quan trọng liên quan bao gồm các chính sách về lợi tức, lãi suất tiền gửi tiết kiệm, chính sách bảo đảm ổn định sức mua (kiểm soát lạm phát), các chính sách về sự phát triển của thị trường vốn (chứng khoán, cổ phiếu, lợi tức góp vốn...), đặc biệt là một số chính sách thuế ảnh hưởng đến động cơ và khả năng tích lũy của người dân. Ngoài ra, những vấn đề về lối sống, tiêu dùng và văn hóa của dân cư, xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tích lũy tiêu dùng và đầu tư của giới trẻ, người trung niên - những người cao tuổi tương lai.
Về hỗ trợ từ gia đình và cộng đồng: Đây là khoản thu nhập trực tiếp và đóng vai trò quan trọng đối với người cao tuổi, nhất là ở nông thôn. Tại Việt Nam, việc chăm sóc, phụng dưỡng cho người cao tuổi được quy định rõ trong Điều 10, Luật Người cao tuổi năm 2009, con, cháu của người cao tuổi có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng người cao tuổi.
Về sức khỏe: Sức khỏe là tác nhân quan trọng làm tiêu hao, tổn thất thu nhập của nhiều người cao tuổi. Chi phí cơ hội, chi phí vô hình do không phải chi trả chi phí y tế được xem là phần đóng góp cho bảo đảm ANTN đối với người cao tuổi, như một khoản lợi ích nhờ kiểm soát rủi ro không xảy ra. Dân cư có số năm sống khỏe mạnh cao, thì số năm bệnh tật thấp, chi phí khám, chữa bệnh, điều trị sẽ giảm bớt, giảm rủi ro và gánh nặng trong thu nhập của người cao tuổi, góp phần bảo đảm ANTN cho người cao tuổi.
2- Năm 2023, Việt Nam có khoảng 16,1 triệu người cao tuổi (khoảng 17% dân số). Đến năm 2030, nước ta sẽ có khoảng hơn 20 triệu người cao tuổi và còn khoảng 12 năm là bước vào thời kỳ dân số già (2024 - 2036) - khoảng thời gian rất ngắn so với các quốc gia phát triển khác(4). Do đó, việc bảo đảm ANTN cho người cao tuổi là một thách thức lớn đối với nước ta.
Thực trạng thu nhập của người cao tuổi ở nước ta được thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản như sau:
Thu nhập và đời sống của người cao tuổi Việt Nam không ngừng tăng trong những năm gần đây, nhưng tỷ lệ người cao tuổi có lương hưu còn khiêm tốn. Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2023, nước ta có 2,7 triệu người cao tuổi được hưởng lương hưu từ quỹ bảo hiểm xã hội, chiếm khoảng 16,77% tổng số người cao tuổi trên cả nước(5). Mức lương hưu bình quân của người cao tuổi là 4,75 triệu đồng/tháng. Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực cải cách chính sách bảo hiểm xã hội trong những năm qua, nhưng sự gia tăng độ bao phủ hưu trí vẫn chậm.
Độ bao phủ của các khoản trợ giúp và ưu đãi xã hội (bao gồm trợ cấp hưu trí xã hội/lương hưu xã hội, trợ cấp cho người có công) còn thấp. Năm 2023, nước ta có 9,32% người cao tuổi (1,5 triệu người) nhận lương hưu xã hội (trợ cấp hằng tháng) và 7,45% người cao tuổi (1,2 triệu người) nhận trợ cấp ưu đãi người có công(6). Mặc dù đã có bổ sung trợ cấp hằng tháng đối với nhóm người cao tuổi từ 75 tuổi - 80 tuổi trong hộ nghèo, hộ cận nghèo ở các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn, nhưng vẫn còn rất nhiều người ở độ tuổi từ 60 tuổi - 79 tuổi chưa nằm trong diện bao phủ của chính sách, nhất là nhóm từ 65 tuổi trở lên, không đủ khả năng tiếp tục làm việc tạo thu nhập, không có lương hưu, phải sống phụ thuộc vào con cháu(7). Về mức chuẩn trợ cấp, dù đã được điều chỉnh tăng lên 360.000 đồng/tháng, nhưng thực sự đang rất thấp so với chuẩn nghèo. Tuy nhiên, việc mở rộng đối tượng và tăng mức chuẩn trợ cấp sẽ có một số tác động đến hệ thống ASXH của nước ta.
Về việc làm của người cao tuổi: Có thể thấy, việc làm cho người cao tuổi tăng đều trong hơn một thập niên qua. Đến năm 2023, Việt Nam có khoảng 4,74 triệu người cao tuổi đang tham gia các hoạt động kinh tế, chiếm 29,4% tổng số người cao tuổi, chiếm 9,24% trong tổng số việc làm của cả nước(8). Sau độ tuổi nghỉ hưu, nhiều người lao động cao tuổi là nguồn nhân lực quý, có tri thức, trình độ, kinh nghiệm và vai trò xã hội, có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hiện nay, việc không có tích lũy, không có lương hưu hoặc lương hưu và trợ cấp xã hội thấp là các nguyên nhân chính để người cao tuổi tiếp tục làm việc, mưu sinh và sống dựa vào thu nhập từ việc làm. Tuy nhiên, chất lượng việc làm của người cao tuổi chưa cao, hầu hết người cao tuổi làm các công việc có tính chất dễ bị tổn thương. Theo số liệu từ Điều tra Lao động - Việc làm năm 2023 của Tổng cục Thống kê, có đến 78,91% người cao tuổi là lao động tự làm và lao động hộ gia đình; 54,63% việc làm người cao tuổi trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản có năng suất thấp và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên; 40,47% người lao động cao tuổi làm các công việc giản đơn. Mức lương bình quân của người cao tuổi năm 2023 là khoảng 4,49 triệu đồng/tháng, bằng 70% so với mức lương bình quân của lao động nói chung trên thị trường.
Về tiết kiệm và đầu tư của người cao tuổi: Đây là một nguồn thu nhập bổ sung/tăng thêm giúp bảo đảm ANTN cho người cao tuổi khi về già để ứng phó với sự gia tăng của chi phí sinh hoạt và y tế. Nhưng theo Báo cáo Nghiên cứu thị trường các sản phẩm, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam của Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA) năm 2021, chỉ khoảng 24,89% người cao tuổi có tiền tiết kiệm. Tỷ lệ người cao tuổi có các khoản thu nhập thụ động từ tiết kiệm và đầu tư còn quá nhỏ, chiếm khoảng 18,8% người cao tuổi, bao gồm các nguồn tiền lãi gửi có kỳ hạn và thu nhập từ cổ phiếu (2,6%), tài sản và cho thuê bất động sản (3,1%), thu nhập từ kinh doanh của gia đình, như cửa hàng (10,8%), thu nhập từ trang trại (2,3%).
Các khoản hỗ trợ từ con cái, người thân chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các nguồn thu nhập của người cao tuổi hiện nay. Theo thống kê, tỷ lệ người cao tuổi nhận được hỗ trợ từ con cái, người thân chiếm tỷ lệ 38,5%, trong khi tỷ lệ người cao tuổi nhận được các khoản lương và trợ cấp hằng tháng là 33,54%. Trong điều kiện hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển và phúc lợi xã hội cho người cao tuổi chưa cao, việc duy trì trách nhiệm, đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ già vẫn hết sức quan trọng trong bảo đảm ANTN cho người cao tuổi. Do đó, cần tiếp tục phát huy các giá trị văn hóa truyền thống này trong quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện các chính sách văn hóa - xã hội hiện nay và trong tương lai.
Chi phí y tế ngày càng tăng và có khả năng đe dọa ANTN của người cao tuổi. Theo thống kê của Tổng cục Dân số, gần 70% người cao tuổi Việt Nam đang đối diện với gánh nặng “bệnh tật kép” và mắc các bệnh mãn tính ngày càng nhiều (ung thư, bệnh tim, đột quỵ, tiểu đường, thoái hóa khớp...), do đó thời gian điều trị và chăm sóc dài kéo theo chi phí y tế ngày càng cao. Khoảng 50,3% người cao tuổi phải sử dụng các dịch vụ chăm sóc nội trú và ngoại trú, 20,4% người cao tuổi đang cần chăm sóc dài hạn, trong đó 1/3 số người được hỏi phải tự chi trả các chi phí y tế hoặc do con cái chi trả(9). Khoảng 11,5% người cao tuổi không có người đưa đến cơ sở điều trị, khiến họ gặp nhiều khó khăn và suy giảm chất lượng cuộc sống(10). Do vậy, việc bảo đảm ANTN cho người cao tuổi là rất quan trọng nhằm giúp người cao tuổi chủ động, nâng cao chất lượng cuộc sống và phát huy vai trò của mình trong sự phát triển của gia đình và cộng đồng.
3- Thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp để bảo đảm ANTN cho người cao tuổi ở nước ta, cụ thể là:
Một là, phát triển hệ thống an sinh xã hội theo hướng thích ứng với già hóa dân số nhanh theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”. Đặc biệt chú trọng phát triển hệ thống bảo hiểm xã hôi linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, bao phủ được toàn bộ lực lượng lao động. Tiếp tục cải cách, mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội, tạo cơ hội tham gia và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động. Có chương trình cải cách hưu trí một cách toàn diện, thu hút sự tham gia của người lao động trong các khu vực kinh tế, sự tuân thủ luật pháp, chính sách về bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động và doanh nghiệp. Cần tiếp tục cân nhắc và xem xét thêm về quyền lợi cho người nghỉ hưu sớm; cần có chính sách hỗ trợ tài chính mạnh mẽ hơn để thu hút sự tham gia đối với người lao động khu vực phi chính thức; hiện đại hóa hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký, thu tiền đóng góp và chuyển lương hưu.
Hai là, hình thành hệ thống thị trường lao động tương thích với một xã hội đang có tốc độ già hóa cao. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến việc làm và phát triển việc làm cho người cao tuổi theo hướng rà soát, sửa đổi Luật Việc làm năm 2013, bổ sung nhóm người cao tuổi là một trong những nhóm lao động được ưu tiên trong các quy định về việc làm. Rà soát, sửa đổi Luật Người cao tuổi năm 2009 một cách đồng bộ, bổ sung quy định liên quan đến người cao tuổi tham gia hoạt động kinh tế; các quy định hỗ trợ người cao tuổi tham gia hoạt động kinh tế, như hỗ trợ đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng... Xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm thực hiện các chương trình, đề án liên quan đến việc làm cho người cao tuổi. Đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện cho người cao tuổi tiếp cận thuận lợi hơn các nguồn lực đất đai, vốn, khoa học - công nghệ, thông tin, thị trường. Bổ sung chức năng tư vấn, giới thiệu việc làm cho người cao tuổi đối với các trung tâm dịch vụ việc làm nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của người cao tuổi đối với việc làm. Xây dựng chương trình việc làm cho người cao tuổi Việt Nam; nghiên cứu cách thức hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng người cao tuổi và cho chính người cao tuổi để tiếp tục duy trì việc làm khi đến tuổi nghỉ hưu; giao các trung tâm dịch vụ việc làm đẩy mạnh xúc tiến việc làm tại địa phương nhằm khai thác, sử dụng các kỹ năng của người cao tuổi; thúc đẩy việc làm cho người cao tuổi là chuyên gia có trình độ cao, tạo cơ hội và khai thác tiềm năng, lợi thế của nhóm người cao tuổi có trình độ cao.
Ba là, chú trọng phát triển các chính sách tài chính khuyến khích tích lũy trong dân cư. Các chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia vừa bảo đảm các cân đối vĩ mô của nền kinh tế, theo đuổi các mục tiêu phát triển kinh tế, vừa có chiến lược dài hạn kiểm soát lạm phát, bảo đảm sức mua của đồng tiền, làm nền tảng niềm tin tiêu dùng và tích lũy trong xã hội. Cải cách các chính sách tiền tệ, phát triển thị trường vốn (chứng khoán, cổ phiếu, lợi tức góp vốn) lành mạnh, đặc biệt là một số chính sách thuế thu nhập cá nhân để tạo động lực và khả năng tích lũy của người dân. Tuyên truyền, khuyến khích người dân, nhất là thanh niên, trung niên có nhận thức đầy đủ, trang bị kiến thức tài chính cá nhân. Xây dựng và ban hành chiến lược giáo dục tài chính quốc gia, bao gồm các nội dung về giáo dục tài chính cá nhân và hộ gia đình, giúp mỗi cá nhân có giải pháp chi tiêu, tiết kiệm và đầu tư phù hợp, không chỉ trong quá trình vận hành cuộc sống, mà còn lo cho tuổi già trong tương lai.
Bốn là, tiếp tục gìn giữ, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đối với người cao tuổi, con cái phải có đạo hiếu, chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ. Hoàn thiện pháp luật và thực hiện tuyên truyền thường xuyên chính sách, pháp luật liên quan đến văn hóa gia đình và xã hội để điều chỉnh hành vi ứng xử đối với người cao tuổi; tạo môi trường và động lực khuyến khích thế hệ trẻ thực hiện bổn phận, trách nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng cha, mẹ già, quan tâm chăm lo đối với người cao tuổi trong cộng đồng, xã hội.
Năm là, tiếp tục phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và chăm sóc dài hạn bằng cách ưu đãi về thuế, đất đai, thủ tục hành chính... Phát triển mạng lưới cơ sở chăm sóc theo phương thức đối tác công - tư nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người cao tuổi; hiện đại hóa hệ thống dịch vụ thông qua tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại. Nghiên cứu xây dựng và phát triển mô hình bảo hiểm chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi theo lộ trình. Bảo đảm chất lượng và sự công bằng trong tiếp cận, thụ hưởng dịch vụ cho các đối tượng, thành phần người cao tuổi khác nhau, từ giai đoạn phòng bệnh đến giai đoạn chữa bệnh; giảm thiểu chi phí chăm sóc y tế thông qua mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm y tế đến mọi đối tượng người cao tuổi; bảo đảm chi phí khám, chữa bệnh, điều trị các bệnh mãn tính và chi phí chăm sóc y tế (các cơ sở điều dưỡng, chăm sóc người cao tuổi) phù hợp với đại bộ phận người cao tuổi, nhất là người cao tuổi cô đơn, có hoàn cảnh khó khăn./.
------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 151
(2) Quan niệm của nhóm tác giả dựa trên cơ sở nghiên cứu khái niệm, thuật ngữ an ninh thu nhập (Income Security) của các tổ chức quốc tế và kết hợp nghiên cứu thực tiễn Việt Nam, như Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Old age work and income security in middle income countries: Comparing the cases, 2021, https://www.ilo.org/static/english/intserv/working-papers/wp034/index.html; AgeAction: Income Security: why it matters for older people everywhere; Viện Khoa học Lao động và Xã hội: Nhận diện các vấn đề xã hội mới, vấn đề cần ưu tiên trong chính sách xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Hà Nội, 2022; HelpAge International: Achieving income security in old age: Taking stock an pushing the boundaries, 2012, https://www.humanitarianlibrary.org/sites/default/files/2019/12/Achieving%20income%20security%20in%20older%20age.pdf
(3) Trong ngữ cảnh bài viết, an ninh thu nhập được hiểu là sự bảo đảm an toàn thu nhập ở mức tối thiểu thông qua hệ thống chính sách can thiệp nhằm quản lý tốt hơn các rủi ro (như ốm đau, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi già, tàn tật...)
(4) Các nước phát triển phải trải qua nhiều thập niên thì mới bước từ giai đoạn dân số già hóa sang dân số già, như Pháp là 115 năm; Thụy Điển là 85 năm; Hoa Kỳ là 70 năm;...
(5) Xem: Ủy ban Quốc gia về Người cao tuổi: Báo cáo Kết quả công tác người cao tuổi năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2024
(6) Xem: Ủy ban Quốc gia về Người cao tuổi: Báo cáo Kết quả công tác người cao tuổi năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2024
(7) Theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP, ngày 15-3-2021, của Chính phủ, về “Quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội”, mức chuẩn trợ giúp xã hội áp dụng từ ngày 1-7-2021 là 360.000 đồng/tháng, chỉ tương đương 18% chuẩn nghèo khu vực thành thị (2 triệu đồng/tháng) và 24% khu vực nông thôn (1,5 triệu đồng/tháng) giai đoạn 2022 - 2025
(8) Tổng cục Thống kê: Điều tra Lao động - Việc làm năm 2023
(9) Xem: Trần Thị Mai, Đặng Thùy Linh và Vũ Công Nguyên: Người cao tuổi và sức khỏe tại Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2020, tr. 89 - 90
(10) Xem: Ngân hàng Thế giới (WB): Thích ứng với xã hội già hóa, 2021, tr. 165
Quá trình già hóa dân số và những tác động đến sự phát triển bền vững hiện nay - Những gợi mở chính sách cho Việt Nam  (05/07/2024)
Hệ lụy của già hóa dân số: Nhìn từ trường hợp Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam  (04/07/2024)
Già hóa dân số trên thế giới hiện nay - Một số gợi mở, hàm ý chính sách cho Việt Nam  (16/05/2024)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam