Xây dựng văn hóa với phát triển kinh tế

PGS, TS. Mai Hải Oanh Tạp chí Cộng sản
08:25, ngày 23-11-2016

TCCSĐT - Trong chiến lược phát triển toàn diện đất nước Đảng ta đã nhiều lần khẳng định không thể hình dung đầy đủ vai trò to lớn của văn hóa nếu không tìm hiểu mối quan hệ khăng khít, biện chứng giữa văn hóa và kinh tế. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: Xây dựng văn hóa hài hòa với phát triển kinh tế.

Yêu cầu của xây dựng văn hóa và phát triển kinh tế trong thời kỳ phát triển mới của đất nước

Tác dụng động lực của văn hóa với phát triển kinh tế được biểu hiện ở các mặt. Thứ nhất, văn hóa và kinh tế luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa và kinh tế là mối quan hệ giữa bộ phận và chỉnh thể, tức là văn hoá là chỉnh thể, là tổng hòa giá trị vật chất và giá trị tinh thần, kinh tế chỉ là một trong đó mà thôi. Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ giữa kinh tế và văn hóa ngày càng trở nên gắn bó mật thiết. Xu thế phát triển trên thế giới chỉ ra kinh tế từ nay về sau là kinh tế văn hóa. Nếu chúng ta kết hợp được tốt văn hoá truyền thống với văn hoá hiện đại thì sẽ có động lực để phát triển.

Thứ hai, quá trình văn hóa thấm sâu vào kinh tế: Văn hóa thấm sâu vào tất cả các hoạt động của con người, trong đó có hoạt động kinh tế. Vì rằng toàn bộ quá trình kinh tế đều là hoạt động của con người lao động tạo ra, nói một cách giản đơn chính là lao động của con người để thay đổi quan hệ giữa người với vật. Quan hệ giữa người với người quy cho đến cùng cũng nảy sinh ra trong lao động. Hiện tại toàn cầu hóa kinh tế và hiện đại hóa khoa học - kỹ thuật lưu hành rộng rãi trên thế giới. Điều đó vừa đem lại hiệu quả kinh tế cho các nước phát triển phát triển nhanh chóng cũng có thể đưa lại vấn đề nhất thể hoá văn hóa và kinh tế. Con đường hiện đại hóa phương Tây và Mỹ trong toàn cầu hoá chính là việc thực hiện nhất thể hoá văn hóa kinh tế. Hoạt động kinh tế có tính chung với bất cứ quốc gia nào. Những đặc điểm chung hòa vào tính riêng của dân tộc. Nếu như xóa bỏ tính riêng của dân tộc, chỉ phát triển kinh tế thì có thể khẳng định là dân tộc sẽ tàn lụi. Do đó vấn đề tự giác văn hóa càng trở thành quan trọng và cấp bách so với bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử hiện đại. Cơ sở của tự giác văn hóa của nước ta là trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự kết hợp sức mạnh truyền thống với sức mạnh của thời đại.

Thứ ba, nếu chúng ta nói về kinh tế mà không chú ý đầy đủ đến văn hóa là rất nguy hiểm. Những thành tựu do đổi mới đạt được cần phải nhìn ở chiều sâu. Trên thực tế các quyết sách của Trung ương đều là sản phẩm của thực tiễn Việt Nam nên thấm đẫm văn hóa Việt Nam, trong phương thức tư duy bao hàm văn hóa Việt Nam. Vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa đã thấm sâu nội hàm của văn hóa truyền thống Việt Nam. Xã hội Việt Nam hiện nay đang ở vào tình trạng nào. Việt Nam đặt một chân lên thời đại thương mại điện tử, kinh tế mã số, xã hội hậu công nghiệp và một chân vẫn đặt trên phương thức canh tác của xã hội nông nghiệp mấy nghìn năm trước. Trong rất nhiều nước chỉ có một vài nước trong đó có Việt Nam mới có khoảng cách bước đi lớn như vậy. Muốn cân bằng sự phát triển làm cho cả nước đạt tới thoát nghèo xây dựng xã hội dân chủ giàu mạnh, công bằng mà không căn cứ vào tình trạng đặc biệt này, áp dụng đối sách tương ứng đổi mới thể chế, xây dựng pháp luật pháp quy tương ứng thì công cuộc đổi mới khó đạt được những thành tựu to lớn.

Thứ tư, sau tự giác văn hoá phải chú ý tới nhân tố văn hóa trong hoạt động kinh tế. Cái gọi là văn hóa doanh nghiệp mà các doanh nghiệp đang đề xướng bây giờ về cơ bản là đều từ bản thân kinh tế thậm chí là nhu cầu của bản thân doanh nghiệp.

Tự giác văn hóa của một dân tộc đòi hỏi mọi thành viên của dân tộc ấy đều tự giác. Kinh nghiệm lịch sử loài người đã chứng tỏ chỉ cần người cầm quyền và tầng lớp trí thức có tự giác là sẽ có tự giác của tất cả dân tộc. Hiện nay nước ta đang ở vào thời kỳ nhận thức xây dựng nền văn hóa mới coi trọng gắn kết văn hóa với kinh tế và chính trị. Mối quan hệ giữa người với người phải được cải thiện. Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã từng bước góp phần tạo nên một lối sống mới trong nhân dân. Vấn đề phản văn hóa trong sự trưởng thành của thanh thiếu niên trong thị trường văn hóa đều đòi hỏi phải giải quyết ngay. Đây là vấn đề của văn hóa đại chúng. Phải thấy được mặt tích cực và tiêu cực của văn hóa đại chúng để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực đến thanh thiếu niên.

Trong đổi mới lý luận về văn hoá phải chỉ rõ phát triển văn hóa phải thích ứng với nhu cầu của thời đại và sự phát triển của đất nước. Sự kết hợp văn hóa truyền thống Việt Nam với quá trình hiện đại hóa toàn diện nhất định sẽ sản sinh ra văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Mà sự chín muồi của văn hóa Việt Nam cũng là lúc kinh tế - xã hội Việt Nam phát triển mạnh mẽ.

Đặc điểm của mối quan hệ giữa xây dựng văn hóa với phát triển kinh tế.

Trong thời đại ngày nay xu thế nhất thể hoá kinh tế văn hóa ngày càng biểu hiện rõ rệt. Lấy con người làm mục đích, sự phát triển của văn hóa và kinh tế theo xu thế chung là nhất thể hóa. Quan hệ giữa kinh tế và văn hóa không phải là quan hệ giữa hai thứ ở ngoài nhau mà có tính nhất trí, tính cùng một xu hướng với bản chất nội tại. Quá trình nhất thể hóa kinh tế với văn hóa do tính nhất trí nội tại, do sự kết hợp của hai lĩnh vực, do sự thúc đẩy nhau theo hai chiều của kinh tế hóa văn hóa với văn hóa hóa kinh tế mà nảy sinh ra thể tổng hợp hệ thống xã hội có tính chất mới. Nó không những bao gồm hàm lượng văn hóa trong kinh tế, cũng bao gồm cả nhân tố kinh tế trong văn hóa tức là bao gồm quá trình lại càng phải bao gồm kết quả, đánh dấu một loại phương thức tư duy mới, định hướng giá trị mới, cũng chỉ ra một loại chuẩn mực hành vi mới, quy phạm hành vi mới. Loài người đang hướng tới mô hình tư duy nhất thể hóa văn hóa kinh tế, từ đó xây dựng nên hình ảnh thế giới mới. Mô hình văn hóa kinh tế của các nước Đông Á những năm 80 chứng tỏ sự vùng dậy của kinh tế khu vực này. Sự kết hợp của văn hóa và kinh tế cũng phản ánh sức mạnh tổng hợp của đất nước, cũng là sự lý giải mới, sự phát triển của nội hàm lực lượng sản xuất theo nghĩa rộng. Sức mạnh tổng hợp của đất nước bao gồm thực lực về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, môi trường. Về kinh tế, năng lực kinh tế của một quốc gia là chỉ về phương diện sản xuất vật chất của một xã hội nhất định, biểu hiện ra các mặt sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng của tư liệu sản xuất. Nó bao gồm sức sản xuất vật chất, năng lực tiêu dùng, thực lực kinh tế, năng lực lao động, năng suất lao động, tư liệu lao động (bao gồm công cụ sản xuất) và trình độ phát triển của chúng cũng tức là nói chúng ta đã nặng về lực lượng kinh tế. Ở thế kỷ XXI tri thức sẽ thay thế cho quyền lực và tư bản trở thành lực lượng kinh tế quan trọng nhất. Lực lượng kinh tế ở đây trên thực tế là chỉ năng lực kinh tế của một quốc gia. Còn năng lực văn hóa là chỉ sức ảnh hưởng của truyền thống văn hoá, mô hình văn hoá nhất định được biểu hiện ra trong kinh tế xã hội. Văn hóa góp phần nâng cao sức sản xuất, xúc tiến sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Hạt nhân của nền văn hóa là sức mạnh tinh thần. Tinh thần cũng tạo ra một lực lượng sản xuất lớn mạnh, bao gồm 8 yếu tố cơ bản của năng lực văn hóa. Một là năng lực văn hóa tinh thần. Tinh thần dân tộc, tinh thần nhân văn, tinh thần cách mạng, tinh thần khoa học đều có thể chuyển hóa thành lực lượng sản xuất to lớn. Hai là văn hóa truyền thống trở thành một động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ba là năng lực văn hóa tri thức. Tri thức chính là sức mạnh. Tri thức có thể sáng tạo ra của cải và chuyển hóa thành lực lượng sản xuất hiện thực. Bốn là năng lực văn hóa nhân tài. Cạnh tranh kinh tế nói chung cũng là cạnh tranh sức mạnh của văn hóa nhân tài. Cạnh tranh nhân tài nói chung cũng là cạnh tranh tố chất văn hóa. Năm là năng lực văn hóa hành vi: Nghi lễ, đạo đức, ý thức, tính phát triển, tính sáng tạo, năng lực hội tụ của cộng đồng, hình ảnh quan hệ công cộng, phong cách quản lý, phương thức quyết sách, phong cách lãnh đạo của cá thể quy tụ thành văn hoá hành vi - nếu như hướng dẫn được tốt thì đều có lợi cho việc nâng cao năng suất lao động. Sáu là năng lực văn hoá thể chế, năng lực văn hoá chế độ. Sự xác lập các chế độ, điều lệ, qui tắc, việc cải cách các thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế khoa học kỹ thuật, giáo dục và sự phát triển xã hội dân chủ và pháp quyền đến có thể giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Bảy là năng lực văn hoá nghệ thuật. Một mặt văn học nghệ thuật là nhân vật chính của nền văn hoá tạo nên tầm vóc và vị trí của nền văn hoá. Mặt khác tố chất thẩm mỹ, tố chất văn nghệ của người lao động có tác dụng gián tiếp đến các lực lượng sản xuất. Còn thiết kế hình ảnh xí nghiệp, thiết kế nhãn hiệu hàng hoá, thiết kế hình ảnh công cộng, thiết kế sản phẩm bao bì đều có lợi cho hoạt động của phát triển doanh nghiệp đều có lợi cho lực lượng sản xuất phát triển. Tám là năng lực văn hoá thông tin. Tài nguyên thông tin ngày nay đã trở thành tài nguyên chiến lược quan trọng nhất. Tầm quan trọng của lực lượng sản xuất dựa trên tài nguyên thông tin đã là điều ai cũng biết. Yếu tố sức tụ hợp văn hóa, hình ảnh văn hóa, môi trường văn hóa, tài nguyên văn hóa, công nghiệp văn hóa, ngày hội văn hóa đều có thể tác động một cách gián tiếp vào lực lượng sản xuất và trong điều kiện nhất định chuyển hóa thành lực lượng sản xuất hiện thực. Sự hòa nhập vào nhau, thẩm thấu vào nhau của văn hóa và kinh tế đã hình thành nên chức năng mới. Văn hóa và kinh tế tạo nên sức thúc đẩy chủ yếu cho kinh tế xã hội hôm nay tiến bộ toàn diện và trở thành động cơ thúc đẩy mạnh mẽ cho kinh tế của nhiều quốc gia, khu vực cất cánh.

Xúc tiến sự phát triển hài hòa giữa văn hóa và kinh tế ở nước ta trong thời kỳ phát triển mới của đất nước

Một là, sự hòa nhập lẫn nhau giữa văn hóa và kinh tế là xu thế khách quan của phát triển xã hội

Xu thế khách quan hòa nhập vào với nhau giữa văn hóa và kinh tế ngày càng thể hiện rõ rệt. Trước tiên nhìn vào góc độ kinh tế. Cơ cấu tiêu dùng sinh hoạt của mọi người đã xuất hiện sự biến đổi mới, tỷ trọng chi phí cho sinh hoạt vật chất giảm đi và bắt đầu dùng nhiều tiền hơn chuyển dịch cho phương hướng chi phí cho tiêu dùng văn hóa, điều đó một mặt yêu cầu sản xuất nhiều hơn sản phẩm văn hoá tinh thần để thoả mãn nhu cầu về văn hóa tinh thần cho mọi người; mặt khác yêu cầu hàm lượng văn hóa trong sản phẩm vật chất cũng không ngừng nâng cao. Thực tiễn chứng minh hàm lượng văn hóa trong sản phẩm càng cao thì giá trị phụ gia kinh tế càng cao.

Thứ hai, nhìn vào góc độ văn hóa. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, khoa học kỹ thuật đổi mới hàng ngày, văn hóa đồng thời với việc giữ gìn thuộc tính ý thức xã hội thì thuộc tính sản xuất hàng loạt và có tính hàng hóa của nó biểu hiện ngày càng rõ ràng. Một mặt trong quá trình sản xuất, quy luật giá trị, cơ chế thị trường ngày càng lớn làm cho văn hóa có tính chất sản xuất lớn xã hội hóa. Mặt khác kỹ thuật cao mới nhất là sự vận dụng số hóa, mạng hóa làm cho hiệu suất sản xuất của sản phẩm văn hóa càng cao, sức truyền bá của văn hóa ngày càng lớn, diện bao phủ của văn hóa ngày càng rộng, sức biểu hiện, sức cảm hóa và thôi thúc của văn hóa được phát huy và nâng cao chưa từng có. Những năm 90 của thế kỷ XX tới nay, công nghiệp văn hoá trở thành một ngành công nghiệp phát triển nhanh nhất toàn cầu. Nhất thể hóa văn hóa với kinh tế đã trở thành xu thế tất nhiên.

Thứ ba, văn hóa là một lực lượng tinh thần cũng ngày một trở thành động lực quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội. Trong phát triển kinh tế tài nguyên nhân văn thậm chí còn lớn hơn nguyên vật liệu năng lượng. Dưới vai trò của nhân tố văn hóa, tài nguyên con người sẽ tạo ra được nguồn của cải to lớn. Đứng trước xu thế văn hoá và kinh tế hoà nhập vào với nhau chúng ta phải nắm chắc quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế, trong quá trình xây dựng một xã hội “giàu mạnh, văn minh” phải phát huy tốt hơn nữa vai trò động lực của văn hóa trong phát triển kinh tế, phát huy tác dụng nâng đỡ của kinh tế trong phát triển văn hóa.

Hai là, không ngừng nâng cao hàm lượng văn hoá trong công tác kinh tế

Coi trọng văn hóa trong nghiên cứu doanh nghiệp. Doanh nghiệp là chủ thể của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, xây dựng văn hóa doanh nghiệp tiên tiến là cơ sở phát triển quan trọng và điểm dừng chân của nền văn hóa tiên tiến. Phải nâng cao hàm lượng văn hóa trong quản lý kinh doanh doanh nghiệp và trong sản phẩm hàng hóa. Chúng ta phải hướng dẫn doanh nghiệp trong quá trình tạo ra nhãn hiệu sản phẩm, phải chú trọng nghiên cứu tinh thần văn hóa của doanh nghiệp, nghiên cứu nhu cầu văn hóa của người tiêu dùng, dồn sức vào việc hình thành sắc thái văn hóa đặc biệt của nhãn hiệu sản phẩm. Nguồn nhân lực là chủ thể của văn hóa doanh nghiệp. Con người là nhân tố tích cực nhất, sôi động nhất, mấu chốt nhất trong phát triển doanh nghiệp. Sự khai thác và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển văn hoá doanh nghiệp là bộ phận quan trọng nhất trong phát triển văn hóa doanh nghiệp. Do đó nhiệm vụ cơ bản của phát triển văn hóa doanh nghiệp là tôn trọng con người, quan tâm đến con người, bồi dưỡng con người, nâng cao tố chất dưỡng chất đạo đức tư tưởng và tốt chất văn hóa khoa học của công nhân viên chức, kích thích tính tích cực và tính sáng tạo của toàn thể công nhân viên chức.

Mô hình quản lý là sự thể hiện tập trung của văn hóa doanh nghiệp, chú trọng nhiều hơn nữa việc bồi dưỡng năng lực đạo đức và giá trị của quản lý kinh doanh doanh nghiệp, nỗ lực thực hiện sự thống nhất hữu cơ của phát triển doanh nghiệp với phát triển con người.

Coi trọng văn hóa trong nghiên cứu công nghiệp văn hóa. Công nghiệp văn hóa là một chủ đề mới, là thể chuyển tải quan trọng chan hòa vào nhau giữa kinh tế và văn hóa. Phải tùy từng địa phương khác nhau mà hình thành nên sắc thái riêng và ưu thế của công nghiệp văn hóa, thông qua việc bảo vệ khai thác lợi dụng tài nguyên nhân văn của văn hóa phi vật thể, sáng tạo ra người nổi tiếng, sản phẩm nổi tiếng, danh dự và khí tiết, phong tục tập quán, phát triển ngành công nghiệp văn hóa có sắc thái riêng, có sắc thái địa phương nồng hậu và dấu ấn văn hóa sâu sắc. Đấy là con đường có hiệu quả nâng cao sức mạnh của công nghiệp văn hóa. Như vậy không những có thể thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng văn hóa không ngừng biến đổi phát triển của quần chúng nhân dân mà còn có thể nâng cao đến mức cực đại hiệu quả kinh tế của những ngành công nghiệp văn hóa, tăng cường được năng lực cạnh tranh thị trường của các ngành công nghiệp văn hóa.

Coi trọng nghiên cứu văn hóa trong kinh tế khu vực. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá đã trở thành lực lượng to lớn tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực. Chỉ có thể nắm được xu thế này giải phóng được đầy đủ tiềm năng giá trị của văn hóa và tố chất của người lao động thì kinh tế từng khu vực mới phát triển. Phải tăng cường khai thác tài nguyên văn hóa và con người ở mỗi khu vực khác nhau. Phát triển kinh tế khu vực phải coi trọng phát huy ưu thế của truyền thống văn hóa, sắc thái riêng văn hóa, nâng cao được năng lực khai thác lợi dụng tài nguyên văn hóa trong phát triển kinh tế khu vực.

Ba là, tính cực tìm tòi biện pháp vận dụng kinh tế trong công tác văn hoá

- Phát triển các loại sự nghiệp văn hoá và công nghiệp văn hóa đều phải quán triệt yêu cầu phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, trước sau đặt hiệu quả xã hội lên hàng đầu.

- Vận dụng quan niệm kinh tế thị trường thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp văn hóa. Thực tiễn yêu cầu chúng ta đẩy nhanh việc xác lập một loạt quan niệm tư tưởng thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một là: Tăng cường ý thức tài nguyên. Phải giỏi khai thác tài nguyên văn hóa đặc biệt là tài nguyên văn hóa phi vật thể. Trong phạm vi chính sách cho phép vận dụng biện pháp thị trường tiến hành tổ chức lại tối ưu hóa đối với tài nguyên, phát huy hiệu ứng, điều chỉnh hợp lý. Hai là, tăng cường ý thức hàng hoá và thị trường. Đối với một bộ phận sản phẩm văn hóa tương đương, đồng thời với việc chú ý thuộc tính ý thức xã hội của nó không thể xem nhẹ thuộc tính hàng hóa đặc biệt của nó. Do đó phải coi trọng các khâu lưu thông, tuân theo qui luật giá trị, phép tắc thị trường của sản phẩm văn hóa, khi phát triển công nghiệp văn hóa phải chú trọng nghiên cứu nhu cầu thị trường của sản phẩm văn hóa. Căn cứ vào sự biến đổi của thị trường để tổ chức sản xuất. Ba là, tăng cường ý thức hiệu quả. Sản xuất sản phẩm văn hoá phải đặt hiệu quả xã hội lên hàng đầu nhưng đồng thời cũng phải chú trọng hiệu quả kinh tế. Nếu không chú trọng giá thành, không chú trọng hiệu quả kinh tế sẽ có thể mất đi thị trường, mất đi sức cạnh tranh thì hiệu quả xã hội cũng không thể nào thực hiện được.

- Vận dụng kinh nghiệm đổi mới thể chế kinh tế để thúc đẩy đổi mới thể chế văn hóa. Phải học tập kinh nghiệm đổi mới thể chế kinh tế, mở rộng mức độ đổi mới thể chế văn hóa thúc đẩy vững chắc việc chia tách chính quyền với doanh nghiệp, chia tách chính quyền với sự nghiệp, xây dựng một thể chế quản lý vĩ mô khoa học. Phải tích cực tìm tòi việc đổi mới doanh nghiệp văn hoá, ra sức thúc đẩy đổi mới chế độ lao động, nhân sự, phân phối của đơn vị văn hoá để xây dựng một cơ chế vận hành vi mô hiệu quả cao, linh hoạt. Trong phạm vi chính sách cho phép nâng đỡ lực lượng xã hội làm văn hoá, nâng đỡ có trọng điểm những doanh nghiệp văn hóa tư nhân làm cho chúng trở thành lực lượng mới của phát triển công nghiệp văn hóa.

- Vận dụng biện pháp kinh tế thúc đẩy việc xã hội hóa sự nghiệp văn hóa. Phải vận dụng biện pháp kinh tế xây dựng kết cấu hạ tầng văn hóa, cải tạo các tập thể, các đơn vị văn hóa, triển khai hoạt động văn hoá, phải để cho càng nhiều đơn vị văn hóa đi vào con đường vận hành xã hội hóa, lấy hiệu quả kinh tế tốt đẹp để nâng đỡ hiệu quả xã hội. Vận dụng đòn bẩy kinh tế thúc đẩy văn hóa phát triển. Phải phát huy đầy đủ tác dụng định hướng của tài chính công cộng trong phát triển văn hóa. Điều chỉnh đúng lúc kết cấu đầu tư tài chính và phương thức đầu tư, từng bước chuyển biến từ đào tạo người sang khuyến khích làm việc, tìm tòi vận dụng biện pháp vay tín dụng để nâng đỡ và phát triển công nghiệp văn hóa. Mở rộng các kênh, từng bước hình thành chính sách đầu tư mang tính tài chính, đầu tư mang tính chính sách và đầu tư mang tính xã hội và cục diện đầu tư lưu thông vốn kết hợp đầu tư mang tính tự thân của các đơn vị văn hóa. Phát huy đầy đủ vai trò của vốn chuyên mục phát triển văn hóa và các loại vốn tuyên truyền văn hóa đã sẵn có, thúc đẩy cho sự phồn vinh của sự nghiệp văn hóa và sự phát triển của công nghiệp văn hóa./.