Tỉnh Quảng Ninh bảo đảm an ninh nguồn nước để phát triển kinh tế - xã hội nhanh, hiệu quả, bền vững
TCCS - Tỉnh Quảng Ninh nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, được biết đến với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí địa chiến lược quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng, việc bảo đảm an ninh nguồn nước trở thành một yêu cầu cấp bách. Để phát triển bền vững, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai nhiều giải pháp nhằm quản lý và bảo vệ nguồn nước hiệu quả.
Thực trạng nguồn nước tại tỉnh Quảng Ninh
Tỉnh Quảng Ninh là một trong những tỉnh có mạng lưới sông, suối và nguồn nước ngầm phong phú, với tổng lượng nước mặt trung bình hằng năm khoảng 8.146 triệu m³. Hệ thống sông ngòi chính bao gồm 4 con sông lớn (Đá Bạc, Ka Long, Tiên Yên, Ba Chẽ), cùng nhiều hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo. Tuy nhiên, do đặc thù địa hình chia cắt mạnh, các dòng chảy phân tán, gây khó khăn trong việc tích trữ và khai thác hiệu quả nguồn nước. Đặc biệt, lượng mưa phân bố không đều theo mùa, với mùa mưa chiếm tới 70% - 80% tổng lượng mưa hằng năm, dẫn đến nguy cơ thừa nước vào mùa mưa và thiếu nước vào mùa khô.
Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh Quảng Ninh có 176 hồ, đập hoạt động với dung tích trên 315 triệu mét khối nước phục vụ cung cấp nước tưới tiêu, sinh hoạt cho người dân. Tổng nhu cầu nước khai thác, sử dụng hằng năm của tỉnh Quảng Ninh hiện tại vào khoảng 469 triệu m3/năm. Với việc dân số tăng nhanh cùng sự phát triển kinh tế dẫn đến tăng nhu cầu sử dụng nước, cộng thêm diễn biến thời tiết cực đoan trong những năm gần đây, khiến nhiều hồ thủy lợi ở nhiều thời điểm bị khô hạn, nguy cơ thiếu nước đang hiện hữu tại một số địa phương.
Trước thực trạng trên, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định số 888/QĐ-UBND, ngày 6-4-2023, của Ủy ban nhân dân tỉnh, “Về phê duyệt Đề án bảo đảm an ninh nguồn nước trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, đưa ra nhiều giải pháp trọng tâm khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo từng giai đoạn cụ thể. Tính đến thời điểm này, tỉnh Quảng Ninh là địa phương đầu tiên trong cả nước phê duyệt đề án bảo đảm an ninh nguồn nước.
Theo đó, đến năm 2025, tỉnh Quảng Ninh sẽ đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng và dự kiến giai đoạn 2026 - 2030 sẽ tiếp tục đầu tư hơn 2.200 tỷ đồng cho các dự án thủy lợi. Cụ thể, giai đoạn đến năm 2025, tỉnh sẽ đầu tư xây dựng hồ Khe Tâm; hồ Tài Chi và hồ Quảng Thành; xây dựng hồ chứa nước C22 (dung tích 0,3 triệu m3) ở khu vực huyện đảo Cô Tô; hoàn thiện việc xây dựng hồ Đồng Dọng ở khu vực Vân Đồn. Riêng khu vực Tây thành phố Hạ Long - thành phố Uông Bí - thị xã Quảng Yên dự kiến đầu tư nâng công suất Nhà máy nước Hoành Bồ thêm 10.000m3/ngày đêm, xây dựng tuyến ống hòa mạng với mạng lưới cấp nước của Nhà máy nước Đồng Ho.
Khu vực phía Đông thành phố Hạ Long và thành phố Cẩm Phả đề xuất triển khai xây dựng nhà máy sản xuất nước sạch từ nguồn nước thải mỏ khu vực Cẩm Phả. Để bảo đảm an toàn và phát huy hiệu quả các công trình hiện có giai đoạn này, tỉnh sẽ sửa chữa, nâng cấp 37 hồ chứa, 36 đập dâng, 5 trạm bơm.
Bên cạnh đó, nguồn nước ngầm tại tỉnh Quảng Ninh có trữ lượng ước tính khoảng 617 triệu m³/năm. Tuy nhiên, việc khai thác nguồn nước này đang đối mặt với nhiều thách thức. Các khu vực đô thị, đặc biệt là tại thành phố Hạ Long và Cẩm Phả, đã có dấu hiệu khai thác quá mức, dẫn đến nguy cơ suy giảm nguồn nước ngầm và sụt lún đất tại một số nơi. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân mà còn đe dọa sự phát triển bền vững của kinh tế địa phương.
Ngoài ra, các hồ chứa nước lớn của tỉnh như hồ Yên Lập, hồ Quất Đông, và hồ Cửa Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, và sinh hoạt. Tuy nhiên, tình trạng bồi lắng và giảm dung tích chứa nước của các hồ này ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là dưới tác động của biến đổi khí hậu và hoạt động kinh tế của con người. Theo báo cáo từ Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh, dung tích của một số hồ chứa đã giảm từ 10% - 15% trong vòng 5 năm qua.
Ô nhiễm nguồn nước mặt cũng là vấn đề đáng lo ngại. Các hoạt động khai thác khoáng sản, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp không được kiểm soát chặt chẽ đã làm gia tăng mức độ ô nhiễm. Tại một số khu vực, nồng độ các chất ô nhiễm trong nước mặt vượt tiêu chuẩn cho phép, gây khó khăn trong việc sử dụng nước mặt để sản xuất nước sạch. Điển hình, các khu vực gần các mỏ than tại Hạ Long và Cẩm Phả đã ghi nhận mức độ ô nhiễm nước cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân và hệ sinh thái tự nhiên.
Nhìn chung, thực trạng nguồn nước tại tỉnh Quảng Ninh phản ánh rõ những áp lực mà tỉnh đang đối mặt trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên nước. Sự gia tăng dân số, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, cùng với các tác động của biến đổi khí hậu đang khiến bài toán an ninh nguồn nước trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Tỉnh Quảng Ninh cần có những chiến lược dài hạn và hành động cụ thể để giải quyết vấn đề này, hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai.
Thách thức trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước tại tỉnh Quảng Ninh
Một là, tác động của biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với bảo đảm an ninh nguồn nước tại tỉnh Quảng Ninh. Tỉnh thường xuyên chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ quét, hạn hán kéo dài và mực nước biển dâng. Những hiện tượng này không chỉ gây mất cân bằng về lượng nước mặt mà còn làm xói mòn đất, giảm khả năng trữ nước của các hồ chứa. Theo báo cáo của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, trong giai đoạn 2015 - 2022, tỉnh Quảng Ninh đã trải qua nhiều đợt hạn hán nghiêm trọng, khiến mực nước tại các hồ chứa lớn, như Yên Lập và Quất Đông giảm tới 30% so với mức trung bình.
Hai là, gia tăng nhu cầu sử dụng nước.
Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội, đặc biệt là tại các khu vực đô thị, như Hạ Long, Cẩm Phả và Móng Cái, đã dẫn đến nhu cầu sử dụng nước tăng mạnh. Dân số ngày càng đông, cùng với sự gia tăng của các ngành công nghiệp, du lịch và nông nghiệp, đã gây áp lực lớn lên nguồn cung cấp nước. Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh, dự kiến đến năm 2025, nhu cầu sử dụng nước tại tỉnh sẽ tăng thêm 25% so với năm 2020, trong khi khả năng cung ứng của hệ thống hạ tầng thủy lợi hiện tại chưa đáp ứng kịp.
Ba là, ô nhiễm nguồn nước mặt và ngầm.
Hoạt động khai thác khoáng sản, đặc biệt là khai thác than, đã gây ra ô nhiễm nghiêm trọng nguốn nước mặn tại các con sông, hồ chứa và nguồn nước ngầm tại tỉnh Quảng Ninh. Các chất thải chưa được xử lý từ khai thác mỏ, sản xuất công nghiệp và sinh hoạt đã xâm nhập vào nguồn nước, khiến chất lượng nước mặt và nước ngầm ở nhiều khu vực không đạt tiêu chuẩn. Theo báo cáo của Viện Tài nguyên và Môi trường biển, nồng độ kim loại nặng tại các sông suối gần khu vực mỏ than Hạ Long và Cẩm Phả thường vượt mức cho phép từ 1,5 - 3 lần, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sử dụng nước cho sinh hoạt và sản xuất.
Bốn là, suy giảm dung tích hồ chứa nước.
Dung tích các hồ chứa nước tại tỉnh Quảng Ninh đang giảm dần do tình trạng bồi lắng và tác động từ hoạt động khai thác rừng, nông nghiệp không bền vững. Hồ Yên Lập, nguồn cung cấp nước lớn nhất của tỉnh, hiện đã mất khoảng 10-15% dung tích do bồi lắng chỉ trong vòng 5 năm qua. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng trữ nước mà còn làm giảm chất lượng nước do lắng đọng phù sa và chất thải từ các hoạt động sản xuất xung quanh.
Năm là, thiếu đầu tư đồng bộ vào hệ thống cấp nước.
Hệ thống hạ tầng thủy lợi của tỉnh Quảng Ninh, đặc biệt là các trạm bơm, đập dâng và mạng lưới phân phối nước, chưa được đầu tư đồng bộ, dẫn đến tình trạng thất thoát nước và phân phối không hiệu quả. Nhiều khu vực, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa và các đảo, vẫn chưa được kết nối với hệ thống cấp nước sạch, khiến người dân phụ thuộc vào nguồn nước mưa và nước ngầm. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh tỉnh Quảng Ninh, tỷ lệ thất thoát nước trên địa bàn tỉnh vẫn ở mức cao, lên tới 30%.
Sáu là, thách thức trong quản lý và phối hợp liên ngành.
Việc quản lý nguồn nước tại tỉnh Quảng Ninh đang đối mặt với sự thiếu đồng bộ trong phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành. Sự chồng chéo trong quản lý tài nguyên nước, cùng với ý thức chưa cao của một bộ phận người dân và doanh nghiệp trong việc bảo vệ nguồn nước, làm gia tăng áp lực lên hệ thống tài nguyên nước vốn đã chịu nhiều tác động từ tự nhiên và con người.
Những thách thức trên đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cho tỉnh Quảng Ninh trong việc triển khai các giải pháp bảo đảm an ninh nguồn nước một cách bền vững. Tỉnh cần có những chính sách đồng bộ, kết hợp giữa bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước và đầu tư vào kết cấu hạ tầng để giảm thiểu các tác động từ những thách thức này.
Một số giải pháp
Để khắc phục những thách thức trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước, tỉnh Quảng Ninh đã đề ra một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhà nước về an ninh nguồn nước.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của an ninh nguồn nước, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành “Đề án bảo đảm an ninh nguồn nước trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Đề án nhấn mạnh việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên nước, coi đây là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài. Cấp ủy, chính quyền các cấp được yêu cầu xác định rõ vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm soát an ninh nguồn nước, bảo đảm sự tham gia tích cực của toàn xã hội.
Thứ hai, đầu tư xây dựng và nâng cấp hạ tầng thủy lợi.
Để đối phó với tình trạng suy giảm dung tích hồ chứa và nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng, tỉnh đã đề ra kế hoạch đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các công trình thủy lợi. Giai đoạn đến năm 2025, tỉnh Quảng Ninh dự kiến sửa chữa, nâng cấp 39 hồ chứa, 36 đập dâng và 6 trạm bơm; xây dựng mới 3 hồ chứa nước. Giai đoạn 2026 - 2030, tiếp tục nâng cấp 25 hồ chứa, 20 đập dâng, 47 trạm bơm và xây dựng mới 16 hồ chứa nước. Tổng mức đầu tư cho các giải pháp này dự kiến khoảng 2.124,5 tỷ đồng.
Thứ ba, bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn.
Nhằm duy trì nguồn sinh thủy và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, tỉnh Quảng Ninh chú trọng bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn. Tỉnh đã triển khai các chương trình trồng rừng gỗ lớn, kết hợp với bảo vệ hệ sinh thái rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Việc này không chỉ giúp bảo vệ nguồn nước mà còn nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Thứ tư, kiểm soát ô nhiễm và nâng cao chất lượng nguồn nước.
Trước tình trạng ô nhiễm nguồn nước do hoạt động khai thác khoáng sản và công nghiệp, tỉnh đã tăng cường kiểm soát, giám sát chất lượng nước tại các sông, hồ và nguồn nước ngầm. Các biện pháp bao gồm xử lý nghiêm các vi phạm về xả thải, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của doanh nghiệp và cộng đồng, bảo đảm chất lượng nước cho sinh hoạt và sản xuất.
Thứ năm, nâng cao nhận thức và sự tham gia của cộng đồng.
Tỉnh Quảng Ninh đã và đang đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng, đầy đủ về tầm quan trọng của an ninh nguồn nước. Trên cơ sở đó, tỉnh khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý, sử dụng tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước, phát huy vai trò giám sát của người dân và các tổ chức xã hội.
Những giải pháp trên thể hiện quyết tâm của tỉnh tỉnh Quảng Ninh trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững trong tương lai./.
Nhận diện một số thách thức an ninh phi truyền thống ở tỉnh Quảng Ninh và giải pháp khắc phục  (22/11/2024)
Quảng Ninh: Một số vấn đề đặt ra trong bảo đảm an ninh môi trường biển trong quá trình phát triển  (21/11/2024)
Quảng Ninh: Tạo sinh kế bền vững gắn với xóa đói, giảm nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số  (20/11/2024)
Bảo đảm an ninh kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ mới  (20/11/2024)
- Xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả” theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Một số vấn đề về chuyển đổi nội dung số trong các tạp chí của Việt Nam hiện nay
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay