Nâng cao lòng tự hào và niềm tin về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh
16:09, ngày 21-01-2015
TCCSĐT - Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 85 năm qua, nhân dân ta đã vượt qua chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian khổ để giành được những thắng lợi thật vẻ vang. Với Cương lĩnh và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước.
Những mốc son chói lọi
Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo trong việc kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng được tôi luyện, trưởng thành, xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện sáng ngời phẩm chất tốt đẹp của mình. Bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo đã giúp cho Đảng ta - đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam - bình tĩnh, sáng suốt khi phân tích, nhận định, đánh giá đúng tình hình, kịp thời đưa ra những quyết định đúng đắn, những chủ trương và giải pháp hữu hiệu để lãnh đạo phong trào cách mạng vượt qua vô vàn khó khăn, thách thức, đặc biệt là trong những bước ngoặt lịch sử. Đây chính là nguồn gốc, là nhân tố góp phần tạo nên sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam trong 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng Việt Nam đã phải trải qua những năm tháng khó khăn và thách thức. Chính trong những năm tháng có tính chất bước ngoặt đó, Đảng ta đã thể hiện rất rõ bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng với tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, vượt qua được những thời kỳ cực kỳ khó khăn, gian khổ, thời kỳ mà thực dân Pháp thi hành chính sách khủng bố trắng, thẳng tay đàn áp dìm phong trào cách mạng Việt Nam trong biển máu. Nhưng những chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngǎn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở thành một thứ lửa thử vàng, tôi luyện nên những con người cách mạng.
Trong 15 năm đầu lãnh đạo cách mạng, trải qua ba cao trào cách mạng lớn (1930 - 1931), (1936 - 1939), (1939 - 1945) như ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngay từ khi mới ra đời, nước ta đã phải đương đầu với bao khó khăn, thách thức, đối mặt với giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; vận mệnh của đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Song, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng để ổn định đời sống của nhân dân, giữ vững chính quyền cách mạng. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến.
Bất chấp nguyện vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã câu kết với nhau với dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Lịch sử đã đặt dân tộc Việt Nam trước một thử thách mới. Để chiến đấu, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, dân tộc Việt Nam đã phải tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài suốt 30 năm chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, những kẻ thù có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh hơn chúng ta gấp nhiều lần cùng với những âm mưu, thủ đoạn rất thâm độc và tàn bạo. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã quyết tâm thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, trải qua hơn 09 năm kháng chiến đầy hy sinh gian khổ, bằng cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân (1953 -1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 5-1954), lịch sử dân tộc ta đã có một trang vàng chói lọi và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới khi đất nước tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau, con đường phát triển tất yếu của cách mạng như Đảng ta xác định là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Đây là nét độc đáo, sáng tạo của cách mạng Việt Nam. Với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào"... trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc 30 năm chiến tranh để giải phóng và bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Những bài học sâu sắc
Ngày nay, nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh, mới thấy hết lực lượng mà kẻ địch đã sử dụng, những ý đồ mà chúng đã thực thi. Nhớ lại những tình huống cực kỳ phức tạp mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua, chúng ta càng thấy rõ tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của các cuộc kháng chiến mà nhân dân ta đã trải qua. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định và sáng tạo, Đảng đã lãnh đạo nhân dân quyết tâm kháng chiến, hạn chế những điểm mạnh của kẻ địch, phát huy những ưu thế vốn có của chúng ta, đánh thắng từng bước, đẩy lùi từng bộ phận, trường kỳ kháng chiến… Cuối cùng, chúng ta đã chiến thắng. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta nêu rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (1). Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu đã giành được, chúng ta cũng mắc những sai lầm, khuyết điểm. Đây là một thực tế, song cần nhận thức một cách sâu sắc rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự nghiệp mới mẻ có nhiều khó khăn, phức tạp chưa có tiền lệ, chúng ta vừa làm vừa tìm tòi khảo nghiệm, thể nghiệm, vừa rút kinh nghiệm nên không tránh khỏi những khuyết điểm. Điều đáng nói là biết nhìn vào khuyết điểm để sửa sai mới là những con người xã hội chủ nghĩa.
Sau nhiều năm trăn trở suy tư, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Ðại hội VI của Đảng (năm 1986) đã nghiêm túc kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm, chỉ rõ nguyên nhân, đề ra biện pháp khắc phục, rút ra những bài học kinh nghiệm. Ðại hội khẳng định quyết tâm và đề ra đường lối đổi mới với những bước đi và hình thức thực hiện phù hợp. Đồng thời, đưa ra các quan điểm có tính nguyên tắc cần nắm vững và thực hiện để bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng hơn có phương pháp phù hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Nắm vững quan điểm có tính nguyên tắc trên, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển và cụ thể hóa trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới từ sau Đại hội VI đến nay qua các kỳ Đại hội Đảng.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như Đại hội XI đánh giá: Ðất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Ðộc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta giành được trong 85 năm qua, nhất là trong 30 năm đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, có lúc Đảng cũng mắc phải những khuyết điểm, sai lầm, đó là một thực tế. Song điều quan trọng là Đảng đã sớm phát hiện ra những sai lầm, khuyết điểm của mình và công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính của cả dân tộc.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phấn đấu với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn, thách thức, nếu Đảng ta không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đất nước.
Việt Nam của hôm nay
Ý thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng đảng, thực hiện Nghị quyết Đai hội XI, tại Hội nghị Trung ương 4, Đảng ta đã khẳng định phải tiếp tục tiến hành củng cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ hơn, nhằm tạo ra một bước chuyển biến mới trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng của chế độ ta. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, đây là cuộc đấu tranh không đơn giản, dễ dàng; trái lại, nó vô cùng khó khăn, phức tạp, thậm chí có thể nói đó là một cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ và quyết liệt. Dù biết là khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ, đòi hỏi toàn Đảng và cả hệ thống chính trị cần nâng cao nhận thức với sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện thật kiên quyết, sự chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, bình tĩnh, tỉnh táo với một quyết tâm rất lớn, kiên trì phấn đấu tích cực để thực hiện nhiệm vụ và các giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 đã đề ra.
Với những kết quả bước đầu đạt được trong việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng, cùng với những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta có đủ cơ sở để vững tin rằng: với quyết tâm chính trị rất cao của một Đảng cách mạng chân chính hết lòng vì nước, vì dân, lại được sự đồng tình ủng hộ của toàn dân tộc; với những chủ trương và giải pháp đúng đắn để củng cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng sẽ được nâng lên trên tầm cao mới, đáp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, không phải lúc nào cũng thuận lợi mà có lúc cũng đã trải qua những năm tháng khó khăn, thách thức rất nghiêm trọng, cũng như trong quá trình lãnh đạo có lúc mắc phải những sai lầm, khuyết điểm, Đảng đã tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân. Đó là dấu hiệu chứng tỏ một Đảng nghiêm túc, đó là Đảng làm tròn những nghĩa vụ của mình. Và như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (2). Chính trong những năm tháng có tính chất bước ngoặt đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của một Đảng cách mạng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng với tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, đã lãnh đạo cách mạng vượt qua được những thời kỳ cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Với những gì mà cách mạng Việt Nam đã giành được trong hơn 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta mãi mãi có quyền tự hào, nâng cao niềm tin về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh./.
---------------------------
(1): Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 5-6
(2): Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.69
Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo trong việc kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng được tôi luyện, trưởng thành, xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện sáng ngời phẩm chất tốt đẹp của mình. Bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo đã giúp cho Đảng ta - đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam - bình tĩnh, sáng suốt khi phân tích, nhận định, đánh giá đúng tình hình, kịp thời đưa ra những quyết định đúng đắn, những chủ trương và giải pháp hữu hiệu để lãnh đạo phong trào cách mạng vượt qua vô vàn khó khăn, thách thức, đặc biệt là trong những bước ngoặt lịch sử. Đây chính là nguồn gốc, là nhân tố góp phần tạo nên sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam trong 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng Việt Nam đã phải trải qua những năm tháng khó khăn và thách thức. Chính trong những năm tháng có tính chất bước ngoặt đó, Đảng ta đã thể hiện rất rõ bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng với tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, vượt qua được những thời kỳ cực kỳ khó khăn, gian khổ, thời kỳ mà thực dân Pháp thi hành chính sách khủng bố trắng, thẳng tay đàn áp dìm phong trào cách mạng Việt Nam trong biển máu. Nhưng những chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngǎn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở thành một thứ lửa thử vàng, tôi luyện nên những con người cách mạng.
Trong 15 năm đầu lãnh đạo cách mạng, trải qua ba cao trào cách mạng lớn (1930 - 1931), (1936 - 1939), (1939 - 1945) như ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngay từ khi mới ra đời, nước ta đã phải đương đầu với bao khó khăn, thách thức, đối mặt với giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; vận mệnh của đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Song, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng để ổn định đời sống của nhân dân, giữ vững chính quyền cách mạng. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến.
Bất chấp nguyện vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã câu kết với nhau với dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Lịch sử đã đặt dân tộc Việt Nam trước một thử thách mới. Để chiến đấu, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, dân tộc Việt Nam đã phải tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài suốt 30 năm chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, những kẻ thù có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh hơn chúng ta gấp nhiều lần cùng với những âm mưu, thủ đoạn rất thâm độc và tàn bạo. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã quyết tâm thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, trải qua hơn 09 năm kháng chiến đầy hy sinh gian khổ, bằng cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân (1953 -1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 5-1954), lịch sử dân tộc ta đã có một trang vàng chói lọi và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới khi đất nước tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau, con đường phát triển tất yếu của cách mạng như Đảng ta xác định là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Đây là nét độc đáo, sáng tạo của cách mạng Việt Nam. Với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào"... trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc 30 năm chiến tranh để giải phóng và bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Những bài học sâu sắc
Ngày nay, nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh, mới thấy hết lực lượng mà kẻ địch đã sử dụng, những ý đồ mà chúng đã thực thi. Nhớ lại những tình huống cực kỳ phức tạp mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua, chúng ta càng thấy rõ tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của các cuộc kháng chiến mà nhân dân ta đã trải qua. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định và sáng tạo, Đảng đã lãnh đạo nhân dân quyết tâm kháng chiến, hạn chế những điểm mạnh của kẻ địch, phát huy những ưu thế vốn có của chúng ta, đánh thắng từng bước, đẩy lùi từng bộ phận, trường kỳ kháng chiến… Cuối cùng, chúng ta đã chiến thắng. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta nêu rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (1). Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu đã giành được, chúng ta cũng mắc những sai lầm, khuyết điểm. Đây là một thực tế, song cần nhận thức một cách sâu sắc rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự nghiệp mới mẻ có nhiều khó khăn, phức tạp chưa có tiền lệ, chúng ta vừa làm vừa tìm tòi khảo nghiệm, thể nghiệm, vừa rút kinh nghiệm nên không tránh khỏi những khuyết điểm. Điều đáng nói là biết nhìn vào khuyết điểm để sửa sai mới là những con người xã hội chủ nghĩa.
Sau nhiều năm trăn trở suy tư, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Ðại hội VI của Đảng (năm 1986) đã nghiêm túc kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm, chỉ rõ nguyên nhân, đề ra biện pháp khắc phục, rút ra những bài học kinh nghiệm. Ðại hội khẳng định quyết tâm và đề ra đường lối đổi mới với những bước đi và hình thức thực hiện phù hợp. Đồng thời, đưa ra các quan điểm có tính nguyên tắc cần nắm vững và thực hiện để bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng hơn có phương pháp phù hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Nắm vững quan điểm có tính nguyên tắc trên, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển và cụ thể hóa trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới từ sau Đại hội VI đến nay qua các kỳ Đại hội Đảng.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như Đại hội XI đánh giá: Ðất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Ðộc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta giành được trong 85 năm qua, nhất là trong 30 năm đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, có lúc Đảng cũng mắc phải những khuyết điểm, sai lầm, đó là một thực tế. Song điều quan trọng là Đảng đã sớm phát hiện ra những sai lầm, khuyết điểm của mình và công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính của cả dân tộc.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phấn đấu với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn, thách thức, nếu Đảng ta không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đất nước.
Việt Nam của hôm nay
Ý thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng đảng, thực hiện Nghị quyết Đai hội XI, tại Hội nghị Trung ương 4, Đảng ta đã khẳng định phải tiếp tục tiến hành củng cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ hơn, nhằm tạo ra một bước chuyển biến mới trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng của chế độ ta. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, đây là cuộc đấu tranh không đơn giản, dễ dàng; trái lại, nó vô cùng khó khăn, phức tạp, thậm chí có thể nói đó là một cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ và quyết liệt. Dù biết là khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ, đòi hỏi toàn Đảng và cả hệ thống chính trị cần nâng cao nhận thức với sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện thật kiên quyết, sự chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, bình tĩnh, tỉnh táo với một quyết tâm rất lớn, kiên trì phấn đấu tích cực để thực hiện nhiệm vụ và các giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 đã đề ra.
Với những kết quả bước đầu đạt được trong việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng, cùng với những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta có đủ cơ sở để vững tin rằng: với quyết tâm chính trị rất cao của một Đảng cách mạng chân chính hết lòng vì nước, vì dân, lại được sự đồng tình ủng hộ của toàn dân tộc; với những chủ trương và giải pháp đúng đắn để củng cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng sẽ được nâng lên trên tầm cao mới, đáp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, không phải lúc nào cũng thuận lợi mà có lúc cũng đã trải qua những năm tháng khó khăn, thách thức rất nghiêm trọng, cũng như trong quá trình lãnh đạo có lúc mắc phải những sai lầm, khuyết điểm, Đảng đã tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân. Đó là dấu hiệu chứng tỏ một Đảng nghiêm túc, đó là Đảng làm tròn những nghĩa vụ của mình. Và như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (2). Chính trong những năm tháng có tính chất bước ngoặt đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của một Đảng cách mạng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng với tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, đã lãnh đạo cách mạng vượt qua được những thời kỳ cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Với những gì mà cách mạng Việt Nam đã giành được trong hơn 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta mãi mãi có quyền tự hào, nâng cao niềm tin về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh./.
---------------------------
(1): Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 5-6
(2): Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.69
Davos 2015 - Tháo gỡ các thách thức, hướng tới tương lai  (21/01/2015)
Davos 2015 - Tháo gỡ các thách thức, hướng tới tương lai  (21/01/2015)
Ban Nội chính Trung ương triển khai nhiệm vụ năm 2015  (21/01/2015)
“Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” - bản chất và quy luật phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam  (21/01/2015)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển