Thực hiện một số Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em: Những yếu tố thành công và giải pháp duy trì
TCCS - Trong hai ngày, 30-6 và 1-7-2014, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở thành phố Giô-han-ne-xbớc (Nam Phi) đã diễn ra Diễn đàn Đối tác toàn cầu vì sức khỏe phụ nữ và trẻ em. Tại Diễn đàn này, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã chia sẻ những thành tựu nổi bật của nền y tế nước ta trong những năm qua, đặc biệt là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, với các chính sách chiến lược mang tính đột phá, nhiều Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đã được hoàn thành, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Tình hình chung
Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em luôn được Nhà nước Việt Nam xác định là một trong những nhiệm vụ ưu tiên của công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Trong những năm qua, việc thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng và hàng loạt các kế hoạch hành động quốc gia, như Kế hoạch tổng thể quốc gia về làm mẹ an toàn, Kế hoạch hành động quốc gia vì sự sống còn của trẻ em, Kế hoạch tổng thể quốc gia về chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe vị thành niên và thanh niên Việt Nam, Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản,... đã góp phần vào việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) mà Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế trong việc giảm tử vong mẹ và tử vong trẻ em. Ngày 14-11-2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2013/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, đánh dấu một giai đoạn mới trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản với quan điểm chiến lược: “đầu tư cho công tác dân số và chăm sóc sức khỏe sinh sản là đầu tư cho phát triển bền vững, mang lại hiệu quả trực tiếp về kinh tế, xã hội và môi trường”.
Bên cạnh hệ thống chính sách và cam kết chính trị, ngành y tế Việt Nam cũng luôn quan tâm củng cố y tế cơ sở, trong đó có lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe bà mẹ và trẻ em (CSSKSS/SKBMTE). Hiện nay, các chỉ số sức khỏe sinh sản nói chung và các chỉ số về tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh nói riêng ở nước ta tương đối khả quan so với các quốc gia khác có cùng mức phát triển về kinh tế - xã hội. Những chỉ số, như khám thai đủ 3 lần, sinh con tại cơ sở y tế, bà mẹ và trẻ sơ sinh được chăm sóc sau sinh, tử vong mẹ và tử vong trẻ em,... đều có sự cải thiện rõ rệt; mạng lưới cung cấp dịch vụ CSSKSS từ Trung ương đến địa phương đã ngày càng được mở rộng, củng cố và phát triển, bao gồm hệ thống các viện, bệnh viện chuyên khoa phụ sản, chuyên khoa nhi, các khoa sản, khoa nhi ở các bệnh viện đa khoa các cấp. Hầu hết hộ sinh, y sĩ sản nhi, nhân viên y tế cơ sở có kỹ năng cơ bản về CSSKSS theo Hướng dẫn quốc gia. Ở những vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi có tỷ lệ sản phụ sinh con tại nhà cao, cùng với việc tuyên truyền vận động, khuyến khích sản phụ đến sinh con tại các cơ sở y tế, Bộ Y tế triển khai các loại hình đào tạo cô đỡ thôn bản hoặc đào tạo cán bộ y tế thôn bản có kiến thức và kỹ năng về quản lý thai và đỡ đẻ sạch, đẻ an toàn bao gồm cả việc phát hiện và chuyển tuyến kịp thời các trường hợp nguy cơ cao, nhằm giảm tai biến sản khoa, giảm tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh.
Kết quả thực hiện Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ số 1 (giảm suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi), số 4 (giảm tử vong trẻ em) và số 5 (giảm tử vong mẹ)
Nhờ có hệ thống chính sách tương đối hoàn thiện và sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, công tác CSSKSS ở Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Về Mục tiêu số 1
Một trong các chỉ tiêu thuộc Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ số 1 về giảm đói nghèo là giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi từ 41% vào năm 1990 xuống còn 20,5% vào năm 2015. Theo thống kê hằng năm của Viện Dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân dưới 5 tuổi đã giảm 7,2% trong giai đoạn 1990 - 2000 (từ 41% xuống còn 33,8%) và giảm 16,3% trong giai đoạn 2000 - 2010 (từ 33,8% xuống còn 17,5%). Năm 2013, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ dưới 5 tuổi đã giảm xuống mức 15,3%. Với tốc độ giảm này, hiện nay Việt Nam đã đạt và vượt Mục tiêu số 1 vào năm 2015.
Tình trạng trẻ dưới 5 tuổi nhẹ cân đã được cải thiện rõ nét nhất trong khoảng từ năm 2000 đến 2010 ở khu vực Nam Trung Bộ (giảm 47%), tiếp đến là khu vực đồng bằng sông Hồng (giảm 46%), khu vực Đông Nam (giảm 46%). Khu vực có sự chuyển biến ít nhất là khu vực Đông Bắc (giảm 37%), khu vực Tây Bắc (giảm 35%) và khu vực Tây Nguyên (giảm 32%). Việt Nam đã đạt được mục tiêu về giảm gánh nặng trẻ nhẹ cân trong Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ số 1 về giảm đói nghèo. Thành tựu này phản ánh cam kết và nỗ lực mạnh mẽ của Chính phủ không chỉ là đầu tư cho chương trình dinh dưỡng mà còn có những nỗ lực không ngừng trong việc thực hiện chương trình này trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của trẻ dưới 5 tuổi trong một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn có xu hướng ở mức trên 25%. Ví dụ, trong số các nhóm dân tộc thiểu số, người Mông có tỷ lệ trẻ nhẹ cân dưới 5 tuổi là cao nhất (33,9%), tiếp theo là dân tộc Ba-na (28,9%), Ê-đê (28,6%), Thái (28,4%), Dao (27,3%), Khmer (27,2%), và Nùng (27%). Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi cũng chưa được cải thiện rõ rệt. Tính chung trên toàn quốc vẫn còn khoảng 30% trẻ bị thấp còi, đặc biệt là ở những vùng nông thôn nghèo, miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và các nhóm dân tộc thiểu số tỷ lệ này lên tới trên 40%. Như vậy, Việt Nam cần tiếp tục có những nỗ lực hành động để cải thiện về mặt dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi một cách đồng đều và bền vững trên cả nước.
Về Mục tiêu số 4 và số 5
Cùng với việc giảm mạnh tử vong mẹ, tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi cũng giảm nhanh và bền vững. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm hơn một nửa từ 58‰ năm 1990 xuống còn 23,2‰ năm 2012. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi cũng đã giảm gần 2/3, từ 44,4‰ năm 1990 xuống còn 15,4‰ năm 2012. Theo đánh giá của cộng đồng quốc tế, Việt Nam có thể đạt được Mục tiêu số 4 về giảm tử vong trẻ em dưới 5 tuổi (xuống 19,3‰) và dưới 1 tuổi (xuống 14,8‰) năm 2015.
Đây là kết quả của việc thực hiện có hiệu quả hàng loạt Chương trình Mục tiêu Quốc gia, như Tiêm chủng mở rộng; Phòng, chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp; Phòng, chống tiêu chảy cấp; Phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em; Chăm sóc điều trị các bệnh thường gặp ở trẻ em; Chăm sóc sức khỏe sinh sản... Tỷ số tử vong mẹ đã giảm hơn 3 lần từ 233/100.000 trẻ được sinh ra vào năm 1990 xuống còn 69/100.000 trẻ được sinh ra vào năm 2009. So với mục tiêu của Chiến lược quốc gia về Chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001 - 2010 tỷ số tử vong mẹ là 70/100.000 trẻ được sinh ra vào năm 2010 thì ngành y tế đã hoàn thành chỉ tiêu này trước 1 năm. Theo đánh giá của cộng đồng quốc tế, Việt Nam có khả năng đạt được Mục tiêu số 5 về giảm tử vong mẹ (xuống còn 58,3/100.000 trẻ được sinh ra vào năm 2015) và là một trong các nước “đạt tiến độ” (“on track”) trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
Tuy nhiên, vẫn còn sự khác biệt khá lớn về tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giữa các vùng, miền. Tây Nguyên vẫn là khu vực có tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi cao nhất cả nước. Tỷ suất này tại khu vực nông thôn cũng cao gần gấp 2 lần so với khu vực thành thị, tử vong trẻ sơ sinh vẫn còn khá cao, khoảng 70% tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và 50% tử vong trẻ em dưới 5 tuổi.
Những yếu tố đưa đến thành công
Một là, sự cam kết của hệ thống chính trị.
Sức khỏe bà mẹ và trẻ em luôn được coi là ưu tiên hàng đầu trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân ở Việt Nam. Việc Chính phủ nước ta cam kết cao trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ là yếu tố quan trọng đóng góp vào thành công trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Hàng loạt văn bản quan trọng được ban hành đã mang lại tác động tích cực đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Năm 1989, Luật Chăm sóc và Bảo vệ sức khỏe nhân dân ra đời, trong đó có chương về bảo vệ phụ nữ và trẻ em, Chiến lược quốc gia về Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, Chiến lược quốc gia về Dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 - 2020, Chiến lược quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020, Kế hoạch hành động quốc gia về nuôi dưỡng trẻ nhỏ... Quốc hội có một ủy ban riêng chịu trách nhiệm về các vấn đề xã hội trong đó có vấn đề chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em.
Hai là, sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế Việt Nam phát triển tương đối nhanh và ổn định. Trong giai đoạn 2000 - 2008, GDP liên tục tăng, đạt mức 7,9%/năm. Tuy bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008, nhưng Việt Nam vẫn đạt được mức tăng trưởng GDP là 6,31% năm 2008, 5,89% trong năm 2011, 5,03% năm 2012 và 5,42% năm 2013. Thu nhập bình quân đầu người đã đạt khoảng 1.908 USD năm 2013.
Công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quá khá tốt. Trong 2 năm 2011 và 2012, hơn 70 nghìn tỷ đồng đã được phân bổ cho công tác giảm nghèo. Các gói chính sách về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dinh dưỡng, dịch vụ pháp lý, văn hóa thông tin, hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đã được tập trung hỗ trợ cho người nghèo và các nhóm yếu thế trong xã hội, trong đó phải kể đến Chương trình 135 đã có thành công đáng kể trong nỗ lực giảm nghèo và nâng cao mức sống cho người nghèo. Tỷ lệ nghèo ở những khu vực được hỗ trợ đã giảm 10%; thu nhập của hộ nghèo giai đoạn 2007 - 2012 tăng lên khoảng 20%.
Ba là, những can thiệp của ngành y tế.
Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em được thực hiện thông qua mạng lưới cung cấp dịch vụ rộng khắp từ Trung ương đến địa phương. Tại tuyến xã, 99% số xã có trạm y tế, gần 94% số trạm y tế có hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi, 66% số trạm y tế có bác sĩ, 84% số thôn bản có nhân viên y tế thôn bản. Tại những thôn, bản rất khó tiếp cận đến trạm y tế hoặc vùng đồng bào dân tộc còn tồn tại tập tục sinh con tại nhà, ngành y tế đã đào tạo các cô đỡ thôn bản chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh.
Tổng chi trung bình đầu người cho y tế đã tăng lên 4 lần, từ 49 USD năm 1995 lên 233 USD năm 2012. Sự cải thiện trong cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em thông qua đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất cho bệnh viện và các phòng khám, các trạm y tế, công tác đào tạo cán bộ y tế là những yếu tố quan trọng đóng góp trong việc nâng cao sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Việc mở rộng tiếp cận đồng thời với nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em đến tất cả các vùng, miền, các đối tượng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và những nhóm người yếu thế là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công trong việc giảm suy dinh dưỡng, giảm tử vong trẻ dưới 5 tuổi và tử vong mẹ.
Bốn là, sự ủng hộ tích cực của các tổ chức quốc tế, sự tham gia của các tổ chức xã hội và truyền thông.
Có được thành tựu đáng kể như trên, phải kể đến sự hỗ trợ tích cực cả về kỹ thuật và tài chính của các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, của các nhà tài trợ song phương, đa phương. Những hỗ trợ này không phải là lớn nếu so với những khoản kinh phí đầu tư, tuy nhiên hỗ trợ về tư vấn đóng vai trò rất quan trọng, nó mang tính chất định hướng, khởi nguồn những sáng kiến, những can thiệp hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ cũng rất quan trọng, góp phần thực thi và chứng minh hiệu quả của các mô hình chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em tùy theo điều kiện của từng địa phương. Sự đóng góp của các tổ chức phi chính phủ cũng rất quan trọng tại các vùng sâu, vùng xa và đối với các nhóm dân số đặc biệt, như trẻ vị thành niên, thanh niên trẻ, người di cư, đồng bào dân tộc thiểu số. Cuối cùng, phải kể đến vai trò tích cực của truyền thông đại chúng trong việc truyền tải các thông điệp về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em đến đông đảo quần chúng nhân dân, vận động nhân dân cùng phối hợp với ngành y tế và toàn thể xã hội tham gia chăm sóc sức khỏe cho chính mình và gia đình mình.
Một số vấn đề còn tồn tại
Việt Nam đạt được những kết quả quan trọng trong 2/3 chặng đường thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đã qua và quyết tâm hướng tới hoàn thành các Mục tiêu này vào năm 2015. Tuy nhiên, bên cạnh những việc đã làm được, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn cần giải quyết, đó là:
- Việt Nam đã được đưa vào danh sách các nước “thu nhập trung bình”, bởi vậy trong những năm tới, nước ta đang và sẽ phải đối mặt với một thách thức rất lớn là sự cắt giảm nguồn hỗ trợ tài chính của các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ.
- Đầu tư ngân sách chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Mặc dù đã có dự án mục tiêu quốc gia nhưng mới chỉ đáp ứng một phần và cũng mới chỉ có để đầu tư chủ yếu cho các tỉnh miền núi, tỉnh khó khăn, những năm gần đây, kinh phí của dự án mục tiêu quốc gia cho nội dung CSSKSS đều bị cắt giảm.
- Tử vong mẹ, tử vong trẻ em tuy đã giảm nhưng tốc độ giảm trong những năm gần đây đang có xu hướng chậm lại và vẫn còn có sự chênh lệch khá lớn giữa các khu vực, các vùng, miền (tại các vùng miền núi chỉ số này gấp tới 3 lần so với ở vùng đồng bằng). Tử vong trẻ sơ sinh vẫn còn khá cao, chiếm tới 70% tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và 50% tử vong trẻ em dưới 5 tuổi. Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân đã có sự cải thiện rõ rệt, tuy nhiên thể thấp còi còn chiếm tỷ lệ khá cao, gần 30% trẻ em dưới 5 tuổi.
- Tiếp cận và chất lượng CSSKBM trước, trong và sau sinh, chăm sóc trẻ sơ sinh còn nhiều hạn chế, tình trạng sinh con không có cán bộ y tế đỡ còn khá phổ biến ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Hệ thống mạng lưới cung cấp các dịch vụ sức khỏe sinh sản đã được hình thành củng cố, song vẫn còn nhiều tồn tại. Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho khoa sản, khoa nhi ở nhiều bệnh viện tuyến huyện còn thiếu thốn, chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc điều trị cấp cứu sản phụ và trẻ em, trẻ sơ sinh. Do hạn chế kinh phí, cán bộ làm công tác sản khoa, sơ sinh và nhi khoa không được đào tạo, cập nhật kiến thức thường xuyên, dẫn đến có những hạn chế về kỹ năng, đặc biệt là những kỹ năng cứu sống bà mẹ và trẻ sơ sinh.
- Hệ thống thông tin báo cáo còn nhiều hạn chế và yếu kém, số liệu thu thập còn thiếu chính xác, chưa phản ánh đúng thực tế về tình hình tử vong mẹ, tử vong trẻ em, đặc biệt không có số liệu về tử vong trẻ sơ sinh, chưa bảo đảm tính kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác hoạch định chính sách cũng như xây dựng kế hoạch can thiệp.
Phát huy những thành tựu đã đạt được và khắc phục những vấn đề còn tồn tại, khó khăn
Thứ nhất, củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản/sức khỏe bà mẹ và trẻ em từ tuyến trung ương đến cơ sở. Nâng cao năng lực chuyên môn, bố trí đủ cán bộ cho các khoa sản, khoa nhi của các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, huyện và bảo đảm trang thiết bị cần thiết cho cấp cứu hồi sức sản khoa và sơ sinh. Phấn đấu để tất cả các bệnh viện huyện mà thời gian tiếp cận được với bệnh viện tỉnh trong thời gian trên 60 phút có thể mổ lấy thai và thực hiện được truyền máu. Thiết lập và vận hành các phòng chăm sóc trẻ sơ sinh riêng tại các bệnh viện huyện.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực. Tăng cường đào tạo bác sĩ chuyên khoa phụ sản, chuyên khoa nhi, đặc biệt chú trọng hình thức đào tạo bác sĩ chuyên khoa sơ bộ để nhanh chóng bổ sung lực lượng cán bộ chuyên khoa thuộc hai chuyên ngành trên hiện đang rất thiếu, kể cả ở các cơ sở y tế tuyến tỉnh. Đào tạo các cán bộ y tế trực tiếp làm công tác sản khoa trở thành “Người đỡ đẻ có kỹ năng”. Đây là một trong những khuyến cáo quan trọng của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) “bảo đảm mỗi ca sinh đều được người đỡ đẻ có kỹ năng đỡ, nhằm hạn chế và xử trí kịp thời tai biến sản khoa, bảo đảm sự an toàn của mỗi ca sinh”. Ngành y tế phấn đấu để đến năm 2015, 80% số cán bộ y tế làm công tác sản khoa ở tuyến tỉnh, 70% ở tuyến huyện đạt tiêu chuẩn “Người đỡ đẻ có kỹ năng”, mỗi trạm y tế xã có ít nhất 1 cán bộ đỡ đẻ đạt tiêu chuẩn “Người đỡ đẻ có kỹ năng”. Đào tạo nâng cao năng lực cấp cứu sản khoa, chăm sóc sơ sinh thiết yếu và cấp cứu sơ sinh theo hướng “cầm tay chỉ việc”, đào tạo theo kíp, theo địa chỉ, theo nhu cầu. Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần tăng cường đào tạo đội ngũ cô đỡ thôn bản hoặc cán bộ y tế thôn bản biết quản lý thai, đỡ đẻ sạch, đẻ an toàn, phát hiện, xử trí cấp cứu và chuyển tuyến kịp thời những trường hợp bà mẹ mang thai có nguy cơ.
Thứ ba, bảo đảm chế độ chính sách thu hút cán bộ chuyên môn, đặc biệt là cán bộ giỏi về công tác lâu dài ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Ban hành quy định về nghĩa vụ xã hội đối với bác sĩ về công tác ở vùng sâu, vùng xa, thực hiện chính sách hỗ trợ đặc thù đối với đội ngũ cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số như nhân viên y tế thôn bản.
Thứ tư, tăng cường đầu tư, bảo đảm tài chính và hậu cần. Bảo đảm ngân sách cần thiết cho các hoạt động chăm sóc sức khỏe sinh sản/sức khỏe bà mẹ - trẻ em. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ tăng cường đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia với mức tối thiểu 100 tỷ đồng/năm và tăng dần theo các năm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản ngày càng đa dạng của người dân, đặc biệt là của bà mẹ - trẻ em (dự án mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản từ năm 2008 đến nay, dự án mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản chỉ được đầu tư với mức trung bình 35 tỷ đồng/năm. Năm 2014, kinh phí cắt giảm chỉ còn 20 tỷ đồng).
Thứ năm, tăng cường các hoạt động thông tin - truyền thông - giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ, hành vi của người dân, đặc biệt là người dân ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa về chăm sóc thai nghén, nguy cơ của việc không khám thai định kỳ và không đến sinh con ở các cơ sở y tế hoặc tự sinh, sinh con không có cán bộ y tế được đào tạo đỡ cũng như các nguy cơ của việc đẻ dày, đẻ nhiều con, đẻ sớm (dưới 20 tuổi) hoặc đẻ muộn (trên 35 tuổi).
Thứ sáu, nhân rộng các mô hình đã được đánh giá có hiệu quả, như mô hình “Chuyển tuyến dựa vào cộng đồng”(1); mô hình “Chăm sóc bà mẹ - trẻ sơ sinh liên tục từ cộng đồng, gia đình đến cơ sở y tế”; đẩy mạnh “thẩm định tử vong mẹ” nhằm rút kinh nghiệm về chuyên môn, trên cơ sở xem xét, đánh giá chi tiết quá trình chẩn đoán, theo dõi, cấp cứu sản phụ, từ đó đưa ra nhận định về nguyên nhân và yếu tố ảnh hưởng đến ca tử vong đó. Hoạt động này sẽ giúp cho các thầy thuốc kịp thời rút ra các bài học kinh nghiệm về chuyên môn để nâng cao chất lượng điều trị, xử trí cấp cứu nhằm tránh không để xảy ra các trường hợp tai biến tương tự.
Thứ bảy, tăng cường giám sát hỗ trợ chuyên môn từ tuyến trên cho tuyến dưới; thực hiện tốt Đề án luân phiên cán bộ tuyến trên hỗ trợ cho tuyến dưới (Đề án 1816), Đề án bệnh viện vệ tinh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh; các quy chế bệnh viện, quy trình kỹ thuật, hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật của Bộ Y tế đối với các cơ sở y tế công lập cũng như tư nhân./.
---------------------------------------
(1) Khi có người bệnh phải đưa đi cấp cứu gấp mà các bệnh viện tuyến xã, thôn, bản không có xe cấp cứu thì cần vận động cộng đồng tham gia vận chuyển bệnh nhân lên bệnh viên tuyến trên bằng các phương tiện sẵn có của nhân dân
Mọi hoạt động của Trung Quốc tại Trường Sa là bất hợp pháp  (23/10/2014)
Tạo thuận lợi trong việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam  (23/10/2014)
Chủ tịch nước gặp mặt Đoàn cựu chiến binh Sư đoàn I Anh hùng  (23/10/2014)
“Từ điển Tiếng Việt dành cho học sinh”: Nhà xuất bản Trẻ thừa nhận sai sót trong thẩm định và lưu trữ hồ sơ  (23/10/2014)
Khởi công xây nhà máy nhiệt điện tư nhân đầu tiên tại Việt Nam  (23/10/2014)
Ủy ban Hòa bình Việt Nam và Hòa Tài Trung Quốc tăng cường hợp tác  (23/10/2014)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên