ASEAN trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ

Võ Xuân Vinh
14:27, ngày 23-03-2007

Với tầm quan trọng về chiến lược kinh tế - xã hội tại khu vực cũng như tiềm năng trở thành đối tác chủ chốt trong thương mại, đầu tư trên thế giới, ASEAN luôn là nhân tố chính trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ.

Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, chính sách hướng Đông của Ấn Độ đã ra đời. Chính sách này được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn một, Ấn Độ tập trung tăng cường quan hệ trên mọi lĩnh vực với khu vực Đông - Nam Á; Giai đoạn hai, Ấn Độ mở rộng quan hệ với các nước còn lại ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Nguyên nhân dẫn tới sự hình thành chính sách hướng Đông của Ấn Độ

Thứ nhất, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã tạo ra những khó khăn mới cho Ấn Độ.

Trước đây, Liên Xô vốn là chỗ dựa vững chắc của Ấn Độ về kinh tế. Các nhà máy chủ chốt trong nền công nghiệp của Ấn Độ phần lớn được xây dựng dưới sự giúp đỡ của Liên Xô. Đây là những nhà máy sản xuất chiếm 80% tổng sản lượng thiết bị luyện kim, 60% thiết bị điện, 70% sản lượng khai thác dầu. Từ năm 1955 đến năm 1977, Liên Xô đã giúp Ấn Độ đào tạo trên 96.000 công nhân, trong đó, 19.000 công nhân có trình độ đại học và trung học, 77.000 công nhân lành nghề. Về thương mại, Liên Xô là nước bạn hàng lớn thứ hai của Ấn Độ và là bạn hàng “dễ tính” mà Ấn Độ có thể xuất mọi sản phẩm từ nông nghiệp tới các hàng công nghiệp tiêu dùng mà không bị đòi hỏi khắt khe về chất lượng. Hằng năm, Liên Xô đều dành một khoản tín dụng lớn, thậm chí bán chịu hàng hóa cho Ấn Độ. Không những thế, từ đầu những năm 1950 đến cuối những năm 1980, trong khi tỷ trọng xuất khẩu của Ấn Độ sang Tây Âu giảm, thì kim ngạch xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lại có xu hướng tăng lên (từ 0,9% trong hai năm 1950-1951 lên 13,6% trong năm 1970-1971 và 18,4% trong năm 1985-1986)(1)

Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và các nước Đông Âu đã làm cho Ấn Độ mất đi nguồn đào tạo nhân lực, nguồn viện trợ chính, cùng các thị trường xuất khẩu quan trọng. Con số 11 tỉ USD(2) (trong tổng số nợ 70 tỉ USD - chiếm 23% GDP năm tài khoá 1990-1991) mà Ấn Độ nợ Liên Xô đã phần nào nói lên mức độ hẫng hụt trong nền kinh tế của quốc gia Nam Á này.

Thứ hai, tác động của cuộc chiến tranh vùng Vịnh (1990-1991).

Nhu cầu về dầu mỏ và các sản phẩm dầu mỏ phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá của Ấn Độ đã gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khi giá dầu tăng do chiến tranh vùng Vịnh. Chỉ trong giai đoạn 1990 - 1991, giá dầu nhập khẩu của Ấn Độ đã tăng 21,9% (tính bằng đồng ru-pi)(3). Nếu như năm 1965, chi phí dành cho nhập khẩu năng lượng của Ấn Độ khoảng 8% giá trị xuất khẩu thì tới năm 1990, con số đó đã tăng lên tới 25%. Sự bất ổn định về nguồn cung cấp dầu cùng giá dầu tăng cao là nguyên nhân trực tiếp khiến Ấn Độ phải tìm kiếm nguồn cung cấp dầu mới và Đông - Nam Á là khu vực mà Ấn Độ hướng tới.

Ngoài ra, chiến tranh vùng Vịnh đã khiến Ấn Độ mất đi một khoản tài chính lớn từ những lao động người Ấn làm việc tại I-rắc và Cô-oét. Tính riêng tại I-rắc, Ấn Độ đã thiệt hại khoảng 500 triệu USD kể từ khi cuộc chiến xảy ra.

Thứ ba, tình hình chính trị bất ổn định của khu vực Nam Á.

Vào đầu những năm 90, các phong trào Sin-đi và Ba-lu-chi ở Pa-ki-xtan, phong trào của người Nê-pan ở Bu-tan, người Tê-rai ở Nê-pan, người Cha-kma ở Băng-la-đét và người Ta-min ở Xri Lan-ca lại nổi lên, gây nên tình trạng bất ổn trên toàn khu vực Nam Á.

Năm 1985, Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) được thành lập với sự tham gia của hầu hết các nước Nam Á. Tuy nhiên, ngay từ khi mới thành lập, cơ chế hợp tác này đã có nhiều hạn chế. Nếu Ấn Độ lo ngại các nước sử dụng diễn đàn này để chỉ trích và cô lập Ấn Độ trong những tranh chấp song phương, thì Pa-ki-xtan cũng có mối lo là Ấn Độ sẽ nắm vai trò lãnh đạo toàn khu vực thông qua tổ chức này. Chính vì vậy, một nguyên tắc trong hiến chương của SAARC là không tranh luận những vấn đề gây bất đồng trong quan hệ song phương tại các cuộc họp của Hiệp hội. Về kinh tế, hầu hết các nước Nam Á là những nước đang phát triển ở trình độ thấp, cần nhiều vốn và kỹ thuật. Trong khi đó, Ấn Độ tuy là nước có trình độ phát triển vào bậc nhất trong khu vực nhưng cũng gặp nhiều khó khăn, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn và kỹ thuật cho các nước thành viên của SAARC. Thêm vào đó, những bất đồng giữa Ấn Độ và Pa-ki-xtan về vấn đề Gia-mu và Ca-xmia, giữa Ấn Độ và Băng-la-đét về vấn đề phân chia nguồn nước của một số con sông… là những trở ngại lớn đối với hợp tác khu vực Nam Á.

Thứ tư, những khó khăn từ chính bản thân Ấn Độ.

Tình hình an ninh ở Ấn Độ vẫn luôn là vấn đề nổi cộm kéo dài trong suốt thời kỳ "Chiến tranh lạnh". Ấn Độ đã trải qua cuộc chiến chống khủng bố kéo dài vài thập kỷ. Các vụ khủng bố ở Ấn Độ liên tục xảy ra ở Gia-mu và Ca-xmia, mặc dù tình hình ở bang Pun-giáp bắt đầu có dấu hiệu lắng xuống vào cuối năm 1992. Từ năm 1988 đến năm 1992, có tới 14.542 vụ khủng bố, trong đó, 9.863 kẻ khủng bố bị bắt với số lượng lớn vũ khí, thuốc nổ lớn. Hoạt động của các nhóm ly khai ở một số bang Đông Bắc Ấn Độ, vùng tiếp giáp với Mi-an-ma và Trung Quốc, gia tăng. Thêm vào đó là sự hoành hành của các hoạt động cướp biển ở quần đảo An-đa-man và Ni-cô-ba, đe dọa tuyến giao thông đường biển, khiến vùng đất ở quần đảo này có nguy cơ trở thành nơi ẩn náu của bọn cướp biển.

Tình hình chính trị Ấn Độ trong giai đoạn này cũng rơi vào tình trạng bất ổn định. Sau thất bại của Mặt trận Dân tộc, chính phủ thiểu số do Chan-đra-xi-kha làm Thủ tướng được Đảng Quốc đại hậu thuẫn lên nắm quyền. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau khi Đảng Quốc đại ngừng giúp đỡ, Thủ tướng Chan-đra-xi-kha phải từ chức. Tình hình chính trị càng trở nên phức tạp hơn khi lãnh đạo của Đảng Quốc đại Ra-díp Gan-đi bị ám sát vào năm 1991. Tuy Đảng Quốc đại vẫn giành thắng lợi chung cuộc trong lần bầu cử sau đó, nhưng chính phủ mới của Thủ tướng Na-ra-sim-ha Rao phải đối mặt với một loạt những vấn đề khó khăn, như đưa nền kinh tế Ấn Độ trở lại quỹ đạo phát triển; bình ổn chính trị nhằm đối phó với những thách thức do toàn cầu hoá và trật tự thế giới mới mang lại…

Về kinh tế, lạm phát gia tăng, các khoản trợ cấp nhà nước tăng nhanh, lượng tiền từ nước ngoài chuyển về giảm mạnh. Trong khi đó, ngân sách dành cho các ngành đầu tư không sinh lợi lại tăng lên một cách nhanh chóng. Ngân sách dành cho quốc phòng từ 15,9% tổng ngân sách (năm tài khoá 1980 - 1981) đã tăng lên 16,9% (năm tài khoá 1987 - 1988). Các khoản trợ cấp nhà nước tăng từ 8,5% (năm tài khoá 1980 - 1981) lên 11,4% (năm 1989 - 1990)(4). Những điều này đã khiến nền kinh tế Ấn Độ sa sút trầm trọng.

Thứ năm, cách nhìn mới của Ấn Độ về khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và các nước Đông - Nam Á nói riêng.

Năm 1935, nhà tư tưởng vĩ đại và cũng là người sáng lập nên nước Cộng hoà Ấn Độ G. Nê-ru đã cho rằng Thái Bình Dương có khả năng thay thế Đại Tây Dương với tư cách là một trung tâm đầu não của thế giới trong tương lai. Tuy không phải là một quốc gia ở Thái Bình Dương nhưng Ấn Độ sẽ phải có được ảnh hưởng quan trọng ở đó (5).

Với ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung Quốc ở khu vực Đông - Nam Á vào cuối những năm 80, các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ cho rằng, chỉ khi Ấn Độ hạn chế được sự ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực này thì vai trò của Ấn Độ ở khu vực Nam Á mới được bảo đảm. Hơn nữa, an ninh cũng như thương mại trên biển của Ấn Độ lại gắn trực tiếp với những eo biển nằm ở khu vực Đông - Nam Á như Sun-đa, Lom-bo, đặc biệt là eo biển Ma-la-xca, nơi có lượng tàu thuyền qua lại mỗi năm gần gấp đôi lượng tàu thuyền qua kênh đào Xuy-ê và gần gấp ba lần kênh đào Pa-na-ma. Ấn Độ tìm kiếm khả năng bảo vệ các hoạt động thương mại trên biển chống lại nạn cướp biển, buôn lậu ma túy tại khu vực Tam giác vàng. Không những thế, sự phát triển kinh tế của các nước Đông - Nam Á, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi của ASEAN thực sự gây ấn tượng mạnh mẽ đối với Ấn Độ.

Thứ sáu, ASEAN hướng tới Ấn Độ với những tính toán chiến lược.

Theo đánh giá của giới phân tích, việc Mỹ và Nga rút quân sự khỏi Đông - Nam Á đã tạo nên “khoảng trống quyền lực” ở nơi đây; và việc Trung Quốc và Nhật Bản nuôi tham vọng lấp chỗ trống này đã thúc đẩy ASEAN tiến tới các cơ chế hợp tác về an ninh mà Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) là một ví dụ điển hình. Sự kiện Ấn Độ được công nhận là thành viên chính thức của ARF vào năm 1995 đã phần nào cho thấy những tính toán chiến lược của ASEAN đối với đất nước Nam Á này.

Trong hợp tác kinh tế, các nền kinh tế ASEAN sau nhiều năm tăng trưởng cao phải đối mặt với chủ nghĩa bảo hộ từ các nước Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản và sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Trung Quốc. Trong bối cảnh đó, Ấn Độ tiến hành cải cách toàn diện đất nước, tăng cường mở rộng quan hệ với các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ấn Độ là một thị trường rộng lớn với gần 1 tỉ dân, mức tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1990-1995 khá cao, ổn định, khoảng 4,5%/năm(6). Đến năm 1995, Ấn Độ đứng thứ 15 trên thế giới về GDP (317 tỉ USD), đứng thứ 13 trên thế giới về công nghiệp, đứng thứ 14 về giá trị nông nghiệp. Không những thế, ngành công nghệ thông tin của Ấn Độ đã thu hút được sự chú ý của thế giới. Nếu năm 1991, Ấn Độ chỉ có 157 công ty tham gia xuất khẩu phần mềm, đạt doanh thu 128 triệu USD, thì giai đoạn 1994-1995, con số đó là 340 công ty, xuất khẩu đạt 458 triệu USD. Từ sau năm 1991, Ấn Độ nhanh chóng trở thành quốc gia đào tạo cán bộ phần mềm máy tính hàng đầu trên thế giới. Với những ưu thế đó, Ấn Độ đã thu hút được sự quan tâm lớn của các nước ASEAN.

ASEAN - Trọng tâm trong Chính sách hướng Đông của Ấn Độ

Đầu những năm 90, với việc xác định ASEAN là một trọng tâm trong chính sách hướng Đông của mình, Ấn Độ đã tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực với ASEAN.

Năm 1992, Ấn Độ là thành viên đối thoại từng phần của ASEAN và trở thành thành viên đối thoại đầy đủ của tổ chức này vào năm 1995. Năm 1996, Ấn Độ tham gia ARF, tham dự cuộc họp các quan chức cấp cao lần thứ tư của ARF vào năm 1997. Ấn Độ coi ASEAN là động lực thúc đẩy ARF và xu hướng "Đối thoại và nhất trí" của ASEAN sẽ tiếp tục là nguyên tắc chỉ đạo của ARF. Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Ấn Độ lần đầu tiên được tổ chức ở Phnôm Pênh (Cam-pu-chia). Tháng 11-2004, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN diễn ra ở Lào, Ấn Độ và các nước ASEAN đã ký bản kế hoạch “Đối tác vì hoà bình, tiến bộ và cùng thịnh vượng”, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ ASEAN - Ấn Độ trên các lĩnh vực chính trị - kinh tế, an ninh, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa.

Thương mại hai chiều giữa Ấn Độ và ASEAN từ đầu những năm 90 đến những năm đầu thế kỷ XXI có những bước phát triển đáng kể. Nếu năm 1993, thương mại hàng hoá hai bên đạt 2,9136 tỉ USD thì đến năm 1997, con số đó lên tới 8,8787 tỉ USD. Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á (1997 - 1998), thương mại hàng hoá hai chiều trong năm 1998 giảm xuống còn 6,9683 tỉ USD. Tuy nhiên, đến năm 2004, thương mại Ấn Độ - ASEAN đạt 17,6716 tỉ USD (tăng bình quân 36% mỗi năm kể từ năm 1998)(7).

Về đầu tư trực tiếp, từ năm 1994 đến năm 2004, số vốn đầu tư trực tiếp của Ấn Độ vào ASEAN đạt 736,8 triệu USD(8), chủ yếu tập trung ở các ngành công nghệ cao. Ngược lại, giai đoạn 1991-2002, các nước ASEAN đã đầu tư trực tiếp 4 tỉ USD vào Ấn Độ, chiếm 6,1% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ấn Độ, chủ yếu tập trung ở các ngành điện tín, dầu mỏ và công nghiệp nặng(9).

Ấn Độ xác định rõ ASEAN là mắt xích trung tâm, là khâu đột phá nhằm tăng cường hợp tác kinh tế, ngoại giao với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong tiến trình Đông Á, với việc giành ưu thế lãnh đạo trong cơ chế hợp tác đầy tiềm năng giữa Trung Quốc và Nhật Bản, ASEAN đang được coi là hạt nhân cố kết các bên tham gia. Không những thế, ASEAN còn là tâm điểm của các hiệp định thương mại tự do.

Với nhận thức đó, về mặt thể chế, Ấn Độ đã thực hiện các quy định nhằm chính thức góp mặt ở Hội nghị thượng đỉnh Đông Á. Năm 2002, Ấn Độ chính thức trở thành một bên của cơ chế hợp tác ASEAN + 1; năm 2003, Ấn Độ ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác của ASEAN (TAC). Như vậy về mặt thể chế, Ấn Độ đủ điều kiện tham gia Hội nghị thượng đỉnh Đông Á. Tháng 12 - 2005, tại Cu-a-la Lăm-pơ (Ma-lai-xi-a), Ấn Độ là một trong số các thành viên chính thức tham dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á đầu tiên - một cơ chế hợp tác rộng lớn của châu Á. Tại hội nghị này, Thủ tướng Ấn Độ M. Xinh đã khẳng định mục tiêu lâu dài là tạo ra một cộng đồng các nước giàu có và hài hòa nhằm đối phó với những thách thức chung.

Về mặt kinh tế, Ấn Độ đã thể hiện tham vọng của mình với những đề xuất lớn. Tháng 11-2004, Thủ tướng M. Xinh đã đưa ra ý tưởng thiết lập “Cộng đồng kinh tế châu Á” nhằm mở rộng và làm sâu sắc thêm phạm vi, nội dung của hợp tác Đông Á. Tháng 11-2005, tại Niu Đê-li, Ấn Độ đã chủ trì hội nghị khoa học cấp cao về “Cộng đồng kinh tế châu Á” lần thứ tư với nhiều kiến nghị về việc xây dựng Khu vực mậu dịch tự do (FTA) Đông Á, hệ thống tiền tệ châu Á, thiết lập diễn đàn năng lượng châu Á, tăng cường hợp tác khoa học kỹ thuật trong khu vực.

Với ASEAN, năm 2003, tại Ba-li, Ấn Độ và ASEAN đã đạt được Hiệp định khung về khu vực mậu dịch tự do (FTA) ASEAN - Ấn Độ. Theo hiệp định khung này, thời hạn đàm phán về thương mại giữa ASEAN - Ấn Độ diễn ra từ tháng 1 - 2004 đến tháng 6 - 2005; về dịch vụ và đầu tư từ năm 2005 đến năm 2007. Vào đầu năm 2004, Uỷ ban đàm phán thương mại (TNC) hai bên được thiết lập với nhiệm vụ soạn thảo các quy định cơ bản (ROO), các phương thức giảm thuế và FTA . Hai bên đã nhất trí các mức giảm thuế ban đầu thuộc FTA bắt đầu từ ngày 1-1-2006. Theo đó, các mức thuế chính thức về hàng hoá phi nông nghiệp sẽ được áp dụng cho các nước ASEAN phát triển hơn (trừ Phi-líp-pin) vào năm 2011 và bốn nước ASEAN còn lại (Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, Việt Nam) vào năm 2016. Ấn Độ cũng nhất trí mở rộng các bước giảm thuế cho từng nước thuộc nhóm trên đối với 111 mặt hàng dựa vào tốc độ phát triển của mỗi nước. Ấn Độ và Phi-líp-pin cũng đã nhất trí giảm thuế vào năm 2016.

Với việc khởi động FTA giữa ASEAN và Ấn Độ, quốc gia Nam Á này đã chính thức tham gia vào làn sóng thiết lập khu vực mậu dịch tự do giữa các nước lớn Đông Á. FTA giữa Ấn Độ và ASEAN mang lại những thuận lợi nhất định cho Ấn Độ trong quá trình tăng cường hợp tác sâu rộng với khu vực kinh tế rộng lớn châu Á - Thái Bình Dương.

Ngoài ra, hiệp định khung cũng hướng vào việc mở rộng và tăng cường những nỗ lực chung về hợp tác kinh tế giữa Ấn Độ và ASEAN ở lưu vực sông Mêkông qua việc tăng cường chương trình Hợp tác sông Hằng - Mêkông (MGC). Chương trình này giúp tăng cường và xây dựng các tuyến giao thông nối Ấn Độ với Mi-an-ma, Thái Lan, Căm-pu-chia và Việt Nam.



(1) Đỗ Đức Định: 50 năm kinh tế Ấn Độ, Nxb Thế giới, Hà Nội, 1999, tr 53
(2) Trần Thị Lý (cb), Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Độ từ 1991 đến 2000, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr 15
(3) Chính phủ Ấn Độ: Thống kê kinh tế 1990 - 1991, Bộ Tài chính, Niu Đê-li, 1991, tr 3
(4) BB. Bha-ta-cha-ri-a: Cuộc khủng hoảng kinh tế Ấn Độ, Nxb BR, Niu Đê-li, 1992
(5) Di-pan-ka Ba-ne-di: Ấn Độ và Đông - Nam Á trong thế kỷ XXI, Nxb Ma Gien Di-pan-ka, Niu Đê-li, 1995, tr188
(6) Trần Thị Lý (cb), Sđd, tr 272.
(7), (8) Niên giám thống kê ASEAN, 2005, tr 70-73 và tr 160, 161
(9) Thông tấn xã Việt Nam, 7-2006, tr 17