TCCS - Do tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên đối với tổ chức cơ sở đảng, nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp cơ sở, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở Sóc Trăng đã có bước chuyển biến quan trọng. Đa số các tổ chức cơ sở đảng đã thể hiện tốt vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương ngày càng được thể hiện rõ hơn, góp phần tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương; xây dựng hệ thống chính trị cơ sở từng bước vững mạnh.

Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng có 15 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy (11 huyện, thành phố), với 526 tổ chức cơ sở đảng; trong đó, có 109 cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn, 417 cơ sở đảng thuộc các loại hình cơ quan, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp và lực lượng vũ trang. Toàn tỉnh có 25.459 đảng viên.

Sóc Trăng có nhiều mặt thuận lợi, nhưng bên cạnh đó cũng còn rất nhiều khó khăn; đặc biệt là trình độ năng lực cán bộ, đảng viên cũng như chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng còn nhiều biểu hiện bất cập so với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới. Vì vậy, vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là một yêu cầu đặt ra hết sức bức thiết đối với Đảng bộ tỉnh.

Những năm qua, để triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Tỉnh ủy Sóc Trăng đã có nhiều chủ trương, giải pháp để xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt, qua hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2005 - 2010, công tác xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng đã đạt được những kết quả tích cực.

Những kết quả đạt được

- Các cấp ủy đảng trong tỉnh đã tập trung chỉ đạo khảo sát đánh giá đúng thực trạng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, thực hiện việc sắp xếp, kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng theo Điều lệ Đảng và quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đến nay có 106/109 xã, phường, thị trấn thành lập chi bộ khối Dân vận; 105/109 xã, phường, thị trấn thành lập chi bộ khối Chính quyền, 103/109 xã, phường, thị trấn thành lập chi bộ khối Đảng và có 23/109 xã, phường, thị trấn thực hiện tách chi bộ Công an, Quân sự thành 2 chi bộ độc lập. Đồng thời, chỉ đạo thành lập đảng ủy khối ngành huyện trực thuộc huyện ủy, thành ủy ở những nơi có điều kiện. Trước mắt, thành lập đảng ủy khối Đảng và đảng ủy khối Dân vận. Các đảng ủy khối ngành khác chỉ đạo thành lập điểm để rút kinh nghiệm.

Từ khi thành lập đến nay, chất lượng hoạt động của các chi bộ có chuyển biến tích cực. Lãnh đạo các cơ quan tập trung tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo tốt hơn công tác xây dựng Đảng và công tác vận động quần chúng; sự phối hợp giữa các cơ quan trong khối có thuận lợi hơn, tạo sự gắn bó trong quan hệ làm việc; thông qua vai trò lãnh đạo tập trung của đảng ủy, các cơ quan trong khối thống nhất cao, tránh sự chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ; việc thành lập đảng ủy khối giảm bớt cán bộ kiêm nhiệm công tác đảng để tập trung vào công tác chuyên môn; chất lượng sinh hoạt từng bước được cải tiến và nâng cao, phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan.

- Công tác kiện toàn cấp ủy cơ sở được quan tâm chỉ đạo. Tỉnh ủy và các huyện ủy, thành ủy đã chỉ đạo bố trí nhân sự bí thư, phó bí thư cấp ủy phù hợp với từng loại hình tổ chức cơ sở đảng. Hằng năm, Tỉnh ủy chỉ đạo các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Hiện nay, đội ngũ cấp ủy viên cơ sở được kiện toàn và từng bước nâng cao chất lượng: trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên chiếm 77,97%; trình độ chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên chiếm 38,42% (tăng 13,85% so với đầu nhiệm kỳ).

Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ có tiến bộ. Đến nay, các xã đều xây dựng xong quy hoạch cán bộ chủ chốt cho nhiệm kỳ 2010 - 2015. Qua báo cáo kết quả quy hoạch, tỷ lệ cán bộ trẻ, nữ, người dân tộc Khmer được quy hoạch có tăng hơn nhiệm kỳ trước. Tỉnh ủy và các huyện ủy, thành ủy luôn chú trọng thực hiện công tác luân chuyển, tăng cường cán bộ về công tác ở cơ sở. Hiện tại đã có 13 cán bộ trẻ, tốt nghiệp đại học ở các trường và 35 cán bộ ở cấp trên được luân chuyển về công tác ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Mỗi năm, tỉnh dành một số biên chế dự phòng để thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ và tăng cường cán bộ cho cơ sở.

- Chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ có nhiều chuyển biến tích cực. Thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 30-3-2007 của Ban Bí thư và Hướng dẫn số 05-HD/BTCTW, ngày 25-5-2007 của Ban Tổ chức Trung ương về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; các cấp ủy, đảng bộ, chi bộ cơ sở duy trì nền nếp chế độ sinh hoạt đảng theo quy định của Điều lệ Đảng; tích cực đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt cho phù hợp với tình hình, đặc điểm cụ thể của từng loại hình chi bộ. Các huyện ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy thường xuyên kiểm tra nội dung, chất lượng sinh hoạt của các chi bộ, phát hiện và uốn nắn kịp thời những chi bộ sinh hoạt còn hình thức, chưa chuẩn bị tốt nội dung.

Các tổ chức cơ sở đảng thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo; quan tâm bổ sung hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy chế làm việc; thực hiện tốt làm việc định kỳ của cấp ủy với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đảng viên và tổ chức cơ sở đảng chấp hành chủ trương, nghị quyết và Điều lệ Đảng, nhằm ngăn chặn đảng viên sai phạm, kịp thời xử lý đảng viên thoái hóa biến chất, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

Trên cơ sở hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo các cấp ủy cụ thể hóa các tiêu chuẩn thành những tiêu chí cụ thể phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng để làm căn cứ xem xét, đề nghị công nhận tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; quá trình đánh giá, phân loại chú trọng về chất lượng, bảo đảm nguyên tắc, quy trình, dân chủ, công khai, khách quan. Qua đánh giá phân loại kịp thời động viên những tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời có biện pháp tích cực để xây dựng, củng cố những tổ chức cơ sở đảng yếu kém, từng bước nâng cao sự đồng đều giữa các tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảngbộ.

Tỉnh ủy và các huyện ủy, thành ủy đều phân công mỗi cấp ủy viên có trách nhiệm theo dõi một xã hoặc phường, thị trấn (ngoài nhiệm vụ chính được giao); chỉ đạo các Ban xây dựng Đảng thường xuyên tham dự các cuộc họp của chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở nhằm theo dõi, tham mưu giúp Thường trực cấp ủy chỉ đạo khắc phục kịp thời những hạn chế, thiếu sót.

- Quan tâm tăng cường công tác quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên. Các cấp ủy chú trọng giáo dục rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng và trình độ nhận thức của đảng viên; uốn nắn những nhận thức lệch lạc, quan điểm mơ hồ, biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng để tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động, nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng..., kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng. Quan tâm, tạo điều kiện cho đảng viên học tập nâng cao nhận thức về lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước... Triển khai thực hiện tốt Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".

Các chi bộ thực hiện tốt việc phân công công tác cho đảng viên, nhiệm vụ được giao phù hợp với trình độ, năng lực, sức khỏe của đảng viên. Đặc biệt, Tỉnh ủy đã chỉ đạo triển khai Đề án hỗ trợ vốn cho đảng viên nghèo nhằm tạo điều kiện cho các đảng viên nghèo vươn lên và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Qua hơn 3 năm thực hiện, đã có 1.324 lượt đảng viên được vay vốn, với tổng số tiền 6 tỉ 822 triệu đồng. Đến nay, có 1.029 đảng viên thoát nghèo, chiếm 77,72 % so với tổng số đảng viên được vay vốn. Mục tiêu phấn đấu đến cuối năm 2010, toàn Đảng bộ không còn đảng viên nghèo.

Công tác quản lý hồ sơ của đảng viên có nhiều tiến bộ, đã ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hồ sơ đảng viên trong toàn tỉnh. Đến nay, có 100% số đảng viên được quản lý trong hệ thống mạng cơ sở dữ liệu. Công tác đánh giá, phân loại chất lượng đảng viên hằng năm được thực hiện đúng quy định. Số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ ngày càng tăng, giảm dần đảng viên vi phạm tư cách. Năm 2009, đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 85,28%; đảng viên vi phạm tư cách: 1,24%.

Công tác kết nạp đảng viên mới được chú trọng. Từ đầu nhiệm kỳ đến cuối 2009, toàn tỉnh đã kết nạp được 7.086 đảng viên; trong đó, nữ có 2.198 đồng chí; người dân tộc Khmer: 981 đồng chí; người Hoa: 286 đồng chí; Đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: 5.005 đồng chí; ngành giáo dục có 1.875 đồng chí; học sinh, sinh viên: 126 đồng chí; ngành y tế: 680 đồng chí; khu dân cư 1.674 đồng chí; người có đạo: 417 đồng chí (có 7 chức sắc).

Với sự tập trung chỉ đạo của Tỉnh ủy và các cấp ủy đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng đã có bước chuyển biến quan trọng. Phần lớn các tổ chức cơ sở đảng đều thể hiện tốt vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương ngày càng được thể hiện tốt hơn. Từ đó, góp phần tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương; xây dựng hệ thống chính trị cơ sở từng bước vững mạnh, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở v.v..

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế, yếu kém; đó là năng lực của cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở không đồng đều, cán bộ chuyên môn chưa được chuẩn hóa kịp thời. Công tác quy hoạch cán bộ ở cơ sở còn hạn chế. Một số tổ chức cơ sở đảng chưa có biện pháp hiệu quả để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và còn một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, giảm sút ý chí chiến đấu, hạn chế về nhận thức, kết quả hoàn thành nhiệm vụ không cao. Công tác kết nạp đảng viên mới tuy đạt về số lượng, nhưng trình độ học vấn của đảng viên, tỷ lệ đảng viên là người Khmer, là nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, công nhân trực tiếp sản xuất trong các doanh nghiệp... còn thấp. ở một số nơi năng lực điều hành của chính quyền cơ sở bộc lộ nhiều yếu kém; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể còn hạn chế, nội dung, phương thức hoạt động chưa sinh động, phong phú và đa dạng.

Bài học kinh nghiệm và những nhiệm vụ cần tập trung thực hiện

Từ thực tiễn công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

- Các cấp ủy, tổ chức đảng nhận thức đầy đủ, đúng đắn về tầm quan trọng của nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình; từ đó đề cao trách nhiệm chính trị của từng tổ chức cơ sở đảng và mỗi cán bộ, đảng viên đối với công tác này.

- Phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh, của từng ngành, đơn vị, cơ sở mà đề ra yêu cầu cụ thể nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thường xuyên quan tâm lãnh đạo xây dựng chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh.

- Quan tâm chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy và của chi bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo vừa nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy, vừa tăng cường trách nhiệm và hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị ở cơ sở.

- Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên đối với tổ chức cơ sở đảng, nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp cơ sở; phân công cấp ủy viên theo dõi phụ trách cơ sở nhằm kịp thời giúp cơ sở tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.

Để tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong thời gian tới, Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng sẽ tập trung thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu như sau:

- Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, quan điểm mơ hồ, biểu hiện dao động về tư tưởng, tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động, nói và làm theo nghị quyết của Đảng, kiên định, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đổi mới, nâng cao chất lượng học tập lý luận chính trị, truyền đạt chủ trương, nghị quyết của Đảng phù hợp với từng đối tượng đảng viên, theo hướng ngắn gọn, dễ hiểu, hiệu quả; chú ý bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, giải quyết tình huống cụ thể xảy ra ở cơ sở. Tiếp tục triển khai thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" một cách thiết thực, tạo sự chuyển biến rõ rệt về đạo đức và lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

- Sắp xếp, kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng theo Điều lệ Đảng và các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư gắn với bố trí cán bộ công chức cấp xã, phường, thị trấn theo quy định của Chính phủ. Trong đó, tập trung sắp xếp các đảng bộ có đông đảng viên hoạt động phân tán trên địa bàn tỉnh và huyện, tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng trực thuộc nhiều đầu mối khác nhau; sắp xếp đồng bộ, thống nhất giữa tổ chức đảng với tổ chức hành chính và các đoàn thể chính trị xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và hoạt động của các đoàn thể quần chúng.

- Đẩy mạnh công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ cơ sở, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài; chú trọng cán bộ là người dân tộc Khmer, cán bộ nữ. Tiếp tục trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở bảo đảm tính kế thừa và phát triển; tiếp tục thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý về công tác ở cơ sở.

- Nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy và chi bộ; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, phát huy dân chủ, năng động, tinh thần trách nhiệm của cấp ủy và đội ngũ đảng viên; thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, quan liêu...; làm tốt công tác phát triển đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên. Thực hiện nghiêm quy trình đánh giá cán bộ chủ chốt ở cơ sở theo quy định.

- Tăng cường chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, cải tiến lề lối làm việc nhằm phát huy tốt chức năng hạt nhân lãnh đạo chính trị cơ sở; chỉ đạo các cơ quan tham mưu triển khai thực hiện tốt các quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX về chức năng, nhiệm vụ đối với từng loại hình tổ chức cơ sở đảng; thường xuyên quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, đơn vị để đề ra kế hoạch một cách sát hợp.

- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng, của ủy ban kiểm tra các cấp. Tăng cường chỉ đạo cơ sở, thực hiện tốt chế độ đi cơ sở của các cấp ủy viên tỉnh, huyện, thành phố./.