Vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong công tác phòng, chống rửa tiền trong các lĩnh vực công nghệ cao
TCCS - Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng phát triển cùng xu hướng chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mang lại nhiều thuận lợi, nhưng cũng tạo ra không ít khó khăn cho công tác quản lý, trong đó hoạt động của tội phạm công nghệ cao tiếp tục diễn biến phức tạp, phát sinh nhiều hình thức, thủ đoạn mới tinh vi hơn trên không gian mạng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn và làm giảm tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao nói riêng, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực tham gia vào công tác phòng, chống rửa tiền trong các lĩnh vực công nghệ cao.
Rửa tiền có sử dụng công nghệ cao và quy định của pháp luật của Việt Nam về tội rửa tiền
Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có. Theo đó, tội phạm rửa tiền gây bất ổn cho hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Hành vi này không chỉ đe dọa an ninh tài chính quốc gia, mà còn phá hoại sự ổn định, minh bạch và hiệu quả của hệ thống tài chính cũng như cản trở sự thịnh vượng của nền kinh tế quốc tế. Chính phủ Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ cho khủng bố và đã nỗ lực triển khai ngày càng hiệu quả cơ chế phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố thông qua việc ban hành và triển khai hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này(1). Bên cạnh đó, hệ thống cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam từng bước được củng cố, phát triển. Trực tiếp chỉ đạo công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam là Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền (Ban Chỉ đạo) được thành lập năm 2009, người đứng đầu là Phó Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Ban Chỉ đạo là đại diện lãnh đạo của 15 bộ, ngành có liên quan, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là Phó Trưởng ban thường trực của Ban Chỉ đạo. Với vai trò điều phối quốc gia về phòng, chống rửa tiền, Ban Chỉ đạo đã kịp thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố ở Việt Nam.
Song song với các hoạt động phòng, chống rửa tiền trong nước, Việt Nam từng bước chủ động hội nhập quốc tế về lĩnh vực này, đánh dấu bằng việc Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên thứ 34 của Nhóm châu Á - Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (APG) vào tháng 5-2007. Theo đó, Việt Nam thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thành viên của APG về thực hiện 40 khuyến nghị về chống rửa tiền của lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) và đã trải qua 2 lần đánh giá đa phương của APG vào năm 2009 và năm 2019. Trong Báo cáo đánh giá đa phương năm 2019 của APG đối với Việt Nam có ghi: “Việt Nam có nhận thức ngày càng cao về rủi ro rửa tiền (RT) và tài trợ khủng bố (TTKB)”(2). Những kết quả nêu trên cho thấy nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua về sự hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế trong cuộc chiến chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, góp phần bảo đảm sự minh bạch và toàn vẹn của hệ thống tài chính thế giới.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số cùng sự ra đời và xuất hiện của nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại đã tạo điều kiện để thực hiện hành vi phạm tội. Theo thống kê: “Trong năm 2020, tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao là nguyên nhân khiến nền kinh tế toàn cầu thiệt hại hơn 1.000 tỷ USD, tương đương hơn 1% sản lượng kinh tế toàn cầu, cùng nhiều tác động nghiêm trọng khác không thể tính bằng tiền”(3).
Việc lợi dụng hoạt động công nghệ cao hay tội phạm có sử dụng công nghệ cao thực hiện hành vi rửa tiền ngày càng trở nên nguy hiểm, tinh vi và phức tạp hơn, vì vậy sự cần thiết của công tác phòng, chống rửa tiền trong nền kinh tế số là một thách thức đối với các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo khoản 1, Điều 3 Nghị định số 25/2014/NĐ-CP, ngày 7-4-2014, của Chính phủ, “quy định về phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao”: Tội phạm có sử dụng công nghệ cao là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, có sử dụng công nghệ cao. Theo đó, các đối tượng là tội phạm có sử dụng công nghệ cao tiến hành phạm tội thông qua internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các thiết bị điện tử.
Qua công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm rửa tiền đối với hoạt động tội phạm có sử dụng công nghệ cao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhận thấy một số hành vi, thủ đoạn phạm tội nổi cộm, tội phạm phổ biến hiện nay như sau:
Một là, lợi dụng không gian mạng để phạm tội, như đánh bạc, tổ chức đánh bạc dưới các hình thức cá độ thể thao, lô đề trực tuyến (online); trò chơi (game) bài đổi thưởng.
Hai là, đối tượng là người Việt Nam liên kết với các đối tượng ở nước ngoài sử dụng nhiều thủ đoạn để lừa đảo. Sau khi nhận tiền của người bị hại do lừa đảo mà có qua tài khoản ngân hàng, đối tượng chuyển tiền qua nhiều tài khoản ngân hàng khác nhau để mua, bán tiền ảo trên các sàn giao dịch tiền ảo (Huobi, Binance,...) rồi chuyển đổi thành tiền pháp định ở nước ngoài để chiếm đoạt.
Ba là, tấn công hòm thư cá nhân hay tổ chức để chiếm đoạt tài sản, cụ thể như tấn công hộp thư điện tử, thay đổi nội dung thư, nội dung các giao dịch, hợp đồng để chiếm đoạt tài sản.
Bốn là, đánh cắp thông tin cá nhân, tài khoản thẻ ngân hàng của cá nhân khác để rút tiền, thanh toán dịch vụ,... nhằm mục đích hưởng lợi bất chính từ hành vi phạm tội.
Năm là, hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người bị hại thông qua việc bán hàng trên mạng; giả danh người nước ngoài nhắn tin làm quen và gửi quà tặng về Việt Nam, người dùng thường không cảnh giác sẽ bị mất tiền hay thông tin cá nhân.
Sáu là, giả mạo cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cán bộ ngân hàng yêu cầu người bị hại cung cấp mật khẩu, mã pin hoặc thông tin thẻ để xử lý sự cố, nhưng thực chất là hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản.
Ngoài ra, tội phạm có sử dụng công nghệ cao còn sử dụng nhiều chiêu thức khác nhau và cách thức thực hiện ngày càng tinh vi gây khó khăn cho cho cơ quan chức năng trong xác định, điều tra, xử lý.
Việt Nam đã nghiên cứu, rà soát, phối hợp với các quốc gia và đặc biệt là các tổ chức quốc tế(4) mà Việt Nam là thành viên nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động này. Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 đã khắc phục được những hạn chế của quy định trước đây, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền; xây dựng hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền phù hợp với các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế. Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và các văn bản hướng dẫn thi hành(5) về cơ bản đã tạo được hành lang pháp lý góp phần ngăn chặn, kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời hành vi rửa tiền.
Trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền gắn với tội phạm có sử dụng công nghệ cao, Luật Phòng, chống rửa tiền có những quy định cụ thể:
Tại Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 quy định đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động(6) và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành, nghề phi tài chính có liên quan theo quy định của pháp luật thực hiện một hoặc một số hoạt động(7). Đồng thời, để bảo đảm bao quát được các hoạt động phát sinh trong tương lai, Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 quy định, Chính phủ quy định hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo chưa được quy định tại luật sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền, đối tượng báo cáo trong quá trình cung cấp dịch vụ phải thực hiện thu thập, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, đánh giá rủi ro về rửa tiền, phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền, báo cáo các loại giao dịch giá trị lớn cho Ngân hàng Nhà nước. Trong quá trình thực hiện giao dịch, đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước khi có cơ sở hợp lý nghi ngờ tài sản trong giao dịch liên quan đến rửa tiền dựa trên việc xem xét, thu thập và phân tích các dấu hiệu đáng ngờ(8). Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 cũng quy định một số dấu hiệu đáng ngờ cơ bản, một số dấu hiệu đáng ngờ gắn với từng lĩnh vực, như lĩnh vực ngân hàng, lĩnh vực trung gian thanh toán,... trong đó có các dấu hiệu đáng ngờ có liên quan tới tội phạm có sử dụng công nghệ cao(9).
Trên cơ sở báo cáo giao dịch đáng ngờ từ đối tượng báo cáo gửi Ngân hàng Nhà nước, cơ quan phòng, chống rửa tiền - Ngân hàng Nhà nước tiến hành phân tích và xử lý thông tin dựa trên nguồn thông tin có sẵn và thu thập bổ sung thông tin trong trường hợp mở rộng phân tích tùy vào tình huống cụ thể. Kết quả phân tích, xử lý thông tin giao dịch đáng ngờ hoặc thông tin được thu thập trong cơ sở dữ liệu về phòng, chống rửa tiền được cơ quan phòng, chống rửa tiền - Ngân hàng Nhà nước trao đổi, cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền phục vụ yêu cầu công tác phòng, chống rửa tiền nói riêng và tội phạm có liên quan nói chung hoặc chuyển giao thông tin/hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến rửa tiền hoặc hoạt động tội phạm khác.
Thực tiễn công tác phòng ngừa, xử lý giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu liên quan đến tội phạm rửa tiền trong các lĩnh vực công nghệ cao
Một số loại hình giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu liên quan đến tội phạm rửa tiền có sử dụng công nghệ cao(10) được Ngân hàng Nhà nước tiếp nhận, xử lý trong thời gian vừa qua như sau:
Giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu liên quan đến hoạt động đánh bạc và tổ chức đánh bạc
Thông qua việc tiếp nhận, phân tích và xử lý báo cáo giao dịch đáng ngờ từ đối tượng báo cáo trong giai đoạn từ năm 2018 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều văn bản trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu liên quan đến hoạt động đánh bạc trực tuyến cho các đơn vị của Bộ Công an, công an quận/huyện, tỉnh, thành phố để xem xét, liên quan đến hàng nghìn vụ việc (trung bình hơn 100 vụ việc/năm) với hàng nghìn cá nhân thực hiện và liên quan đến giao dịch đáng ngờ có thể có dấu hiệu của tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật về đánh bạc, tổ chức đánh bạc. Đây là nhóm tội phạm nguồn có mức rủi ro cao và trung bình cao gắn với hoạt động rửa tiền theo kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền/tài trợ khủng bố giai đoạn 2012 - 2017. Nổi bật trong các năm 2020 và năm 2022 số lượng vụ việc được chuyển giao nhiều nhất (hơn 200 vụ việc).
Giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu liên quan đến hoạt động tiền ảo, tài sản ảo
Hiện nay, thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính đã triển khai công tác nghiên cứu về các loại tài sản ảo, tiền ảo, tài sản mã hóa, tiền mã hóa (gọi chung là tài sản mã hóa) và kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động quản lý, giám sát liên quan, trong đó làm rõ khái niệm về tài sản mã hóa theo thông lệ quốc tế; phân loại tài sản mã hóa và cơ chế hoạt động; rủi ro tiềm ẩn; thực trạng hoạt động liên quan đến tài sản mã hóa và các quy định pháp luật, cơ chế quản lý trên thế giới và tại Việt Nam. Nội dung nghiên cứu đã được Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại tờ trình số 21/TTr-BTC, ngày 1-2-2024.
Trong giai đoạn từ năm 2018 - 2023, đối với công tác phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước đã nhận được các báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến tiền ảo, tài sản ảo, thông tin chủ yếu từ đối tượng báo cáo là ngân hàng và doanh nghiệp trung gian thanh toán(11). Ngân hàng Nhà nước cũng đã chuyển giao nhiều hồ sơ, vụ việc liên quan đến giao dịch tiền ảo, tài sản ảo cho các đơn vị thuộc Bộ Công an để xem xét, xác minh và xử lý. Tuy nhiên, hiện nay khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tiền ảo, tài sản ảo, nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo chưa được ban hành nên công tác xác minh, xử lý đối với giao dịch tiền ảo, tài sản ảo gặp nhiều khó khăn.
Theo các đánh giá, nghiên cứu quốc tế, tiền ảo, tài sản ảo tiềm ẩn nhiều rủi ro bị lợi dụng cho các mục đích phi pháp, như rửa tiền, tài trợ khủng bố, trốn thuế,... xuất phát từ tính chất trực tuyến trong giao dịch tài sản ảo, tính ẩn danh của tài sản ảo so với các biện pháp thanh toán, giao dịch truyền thống, cũng như từ khả năng giao dịch xuyên biên giới của tài sản ảo. Tiền ảo, tài sản ảo cũng có thể là một kênh hữu hiệu để tội phạm lợi dụng cho hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố do có thể chuyển đổi các khoản tiền thu được từ hành vi phạm tội thành tiền “sạch”.
Triển khai Chỉ thị số 10/CT-TTg, ngày 11-4-2018, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo”, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN, ngày 13-4-2018, “Về các biện pháp tăng cường kiểm soát các giao dịch, hoạt động liên quan đến tiền ảo”, trong đó Ngân hàng Nhà nước có những chỉ đạo, yêu cầu cụ thể đối với tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, theo đó các tổ chức này không được cung ứng dịch vụ thanh toán, thực hiện giao dịch thẻ, cấp tín dụng qua thẻ, hỗ trợ xử lý, thanh toán, chuyển tiền, bù trừ và quyết toán, chuyển đổi tiền tệ, thực hiện giao dịch thanh toán, chuyển tiền qua biên giới liên quan tới giao dịch tiền ảo cho khách hàng do có thể phát sinh những rủi ro về rửa tiền, tài trợ khủng bố, gian lận, trốn thuế, tăng cường rà soát, báo cáo kịp thời giao dịch đáng ngờ có liên quan tới tiền ảo; rà soát tổ chức, cá nhân có giao dịch mua bán, trao đổi tiền ảo, tổ chức có hoạt động xử lý giao dịch mua bán, trao đổi tiền ảo và có biện pháp xử lý bảo đảm tuân thủ quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và quản lý ngoại hối.
Giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu liên quan đến hoạt động tội phạm có sử dụng công nghệ cao khác
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước cũng thường xuyên nhận được các báo cáo giao dịch đáng ngờ từ đối tượng báo cáo, trong đó các giao dịch được báo cáo có dấu hiệu thuê mở tài khoản, làm giả giấy tờ cá nhân để mở tài khoản ngân hàng, chứng khoán, nghi ngờ có dấu hiệu rửa tiền hoặc hành vi phạm tội khác. Từ thông tin giao dịch đáng ngờ chuyển giao từ Ngân hàng Nhà nước, cơ quan điều tra tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội mua, bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng theo khoản 2, Điều 291, tội rửa tiền theo Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng nhận được thông tin từ đối tượng báo cáo về các trường hợp giả mạo thư điện tử (email) đề nghị thanh toán, gọi điện chuyển tiền với số tiền đề nghị thanh toán lớn, có dấu hiệu liên quan đến lừa đảo, gian lận tài chính. Thông tin giao dịch đáng ngờ liên quan đến lừa đảo, gian lận tài chính cũng được Ngân hàng Nhà nước phân tích, xử lý và chuyển giao cho cơ quan công an để xác minh, xử lý.
Trước tình trạng lừa đảo trực tuyến gia tăng và tội phạm có sử dụng công nghệ cao diễn biến phức tạp, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai một số biện pháp sau:
Một là, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để thông tin, cảnh báo, hướng dẫn và yêu cầu thực hiện quy định của pháp luật về mở và sử dụng tài khoản thanh toán, quản lý ngoại hối, thanh toán quốc tế và phòng, chống rửa tiền.
Hai là, trên cơ sở phân tích dữ liệu, thông tin nhận được, Ngân hàng Nhà nước tiến hành nghiên cứu, tổng hợp và xây dựng báo cáo về xu hướng của nhóm tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc, cá độ trực tuyến, giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 10-2019, gửi kết quả nghiên cứu tới Bộ Công an và tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (tháng 7-2021) để tham khảo nhằm ngăn chặn, phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc có nguy cơ gắn với các giao dịch rửa tiền đặc biệt qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Ba là, qua công tác phối hợp trao đổi thông tin giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều văn bản gửi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức trung gian thanh toán cảnh báo về các trang web có dấu hiệu đánh bạc, cá độ trực tuyến; đồng thời, đề nghị tăng cường rà soát giao dịch liên quan đến tổ chức đánh bạc, đánh bạc.
Bốn là, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng thuộc Bộ Công an trong trao đổi, cung cấp thông tin về hoạt động tội phạm liên quan đến lĩnh vực thanh toán, thông tin báo cáo giao dịch đáng ngờ để xử lý nhiều vụ việc gian lận, phạm tội liên quan mở và sử dụng tài khoản thanh toán.
Năm là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến phòng, chống rửa tiền, mở và sử dụng tài khoản thanh toán theo hướng quy định chặt chẽ hơn về quy trình nhận biết khách hàng, định danh khách hàng mở và sử dụng tài khoản thanh toán.
Sáu là, thực thi nghiêm Quyết định số 2345/QĐ-NHNN, ngày 18-12-2023, “Về triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng”, theo đó yêu cầu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phân loại giao dịch, triển khai áp dụng các biện pháp xác thực trong thanh toán trực tuyến trên internet (internet banking, mobile banking); đồng thời, triển khai áp dụng các giải pháp giảm thiểu rủi ro trong thanh toán trực tuyến. Theo đó, kể từ ngày 1-7-2024, giao dịch chuyển tiền ngân hàng (khác chủ tài khoản) hoặc nộp tiền vào ví điện tử trên 10 triệu đồng hoặc tổng giá trị giao dịch chuyển tiền, thanh toán trong ngày vượt quá 20 triệu đồng phải được xác thực bằng sinh trắc học.
Bảy là, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực phối hợp với Bộ Công an, các đơn vị liên quan triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Kế hoạch phối hợp số 01/KHPH-BCA-NHNNVN, ngày 24-4-2023, giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an về triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án này; thường xuyên chỉ đạo tổ chức tín dụng, trung gian thanh toán tích cực nghiên cứu ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử trong hoạt động ngân hàng; phối hợp làm sạch dữ liệu khách hàng của ngân hàng thương mại.
Nâng cao hiệu quả phòng ngừa, xử lý giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu liên quan đến hoạt động tội phạm rửa tiền trong các lĩnh vực công nghệ cao trong thời gian tới
Bên cạnh kết quả đạt được, Ngân hàng Nhà nước phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công nghệ cao có dấu hiệu liên quan đến rửa tiền, xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, một số quy định của pháp luật còn chưa được hướng dẫn, bổ sung kịp thời, chưa có chế tài để xử lý, như khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động tiền ảo, tài sản ảo,...
Thứ hai, chế tài xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền ở một số ngành, lĩnh vực còn thấp, chưa đủ sức răn đe.
Thứ ba, công tác phòng, chống rửa tiền tại các đơn vị, các lĩnh vực ngành, nghề chưa được thực hiện đồng bộ. Một số đối tượng báo cáo còn hạn chế trong công tác phát hiện, phân biệt giữa giao dịch bất thường hay giao dịch đáng ngờ liên quan đến rửa tiền.
Thứ tư, hệ thống trang thiết bị, cũng như năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm có sử dụng công nghệ cao còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển công nghệ mà các loại hình tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, như tội phạm đánh bạc và tổ chức đánh bạc sử dụng công nghệ cao, tội phạm có yếu tố nước ngoài,...
Thứ năm, một bộ phận người dân dễ bị lợi dụng hoặc chưa có trình độ hiểu biết về quy định pháp luật liên quan, bao gồm cả quy định về mở và sử dụng tài khoản.
Thanh toán là một trong những khâu cuối cùng trong chuỗi cung ứng, mua bán hàng hóa, dịch vụ, do đó nhằm đấu tranh, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm pháp luật nói chung và hành vi vi phạm trong lĩnh vực công nghệ cao nói riêng, các bộ, ngành cần có hành lang pháp lý và cơ chế kiểm soát giao dịch gốc, như kinh doanh tiền ảo, tài sản ảo,... Đồng thời, nâng cao công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động, như quản lý cư trú, quản lý cơ sở, ngành, nghề kinh doanh có điều kiện dễ phát sinh hoạt động đánh bạc, tổ chức đánh bạc; công tác quản lý, giám sát không gian mạng; quản lý sim, thẻ điện thoại...
Nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa, xử lý các giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu liên quan đến hoạt động của tội phạm có sử dụng công nghệ cao, đấu tranh, ngăn chặn loại tội phạm này lợi dụng dịch vụ thanh toán, trung gian thanh toán cho các hoạt động bất hợp pháp, sử dụng các khoản tiền bất chính vào mục đích rửa tiền, cần đồng bộ thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh các hoạt động phòng ngừa gắn với việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, công tác phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật trong tình hình mới, đặc biệt là vi phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao.
Thứ hai, rà soát, nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện quy định của pháp luật, quy định, hướng dẫn của bộ, ngành, địa phương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước liên quan đến lĩnh vực phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công nghệ cao, như hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tiền ảo, tài sản ảo...
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền ở tất cả ngành, nghề, lĩnh vực.
Thứ tư, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, cơ quan chức năng nhằm xây dựng, cập nhật tiêu chí, dấu hiệu giao dịch đáng ngờ có liên quan đến hoạt động của tội phạm có sử dụng công nghệ cao; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền tới tất cả đối tượng báo cáo.
Thứ năm, đầu tư kinh phí, trang thiết bị hiện đại; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao bổ sung cho đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao.
Thứ sáu, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật và chế tài xử lý đối với tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao. Tuyên truyền, thông báo về phương thức, thủ đoạn, hậu quả, tác hại của hành vi vi phạm pháp luật gắn với các vụ việc, vụ án cụ thể mang tính thời sự, nổi cộm để nhân dân đề cao cảnh giác, tránh để đối tượng phạm tội khai thác, lợi dụng để trục lợi./.
-------------------------
(1) Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022, Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013
(2) Báo cáo đánh giá đa phương năm 2019 của APG đối với Việt Nam, phần A, tr. 6
(3) Xem: Tội phạm công nghệ cao trong nền kinh tế số: Nhận diện hành vi, thủ đoạn và những biện pháp phòng ngừa, Trang tin điện tử Bộ Thông tin và Truyền thông, ngày 1-12-2021, https://mic.gov.vn/toi-pham-cong-nghe-cao-trong-nen-kinh-te-so-nhan-dien-hanh-vi-thu-doan-va-nhung-bien-phap-phong-ngua-197151122.htm
(4) Nhóm châu Á - Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (APG), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
(5) Nghị định số 19/2023/NĐ-CP, ngày 28-4-2023, của Chính phủ, về “Quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền”; Thông tư số 09/2023/TT-NHNN, ngày 28-7-2023, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, về “Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền”; Quyết định số 11/2023/QĐ-TTg ngày, 27-4-2023, về “Quy định mức giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo”
(6) Nhận tiền gửi; cho vay; cho thuê tài chính; dịch vụ thanh toán; dịch vụ trung gian thanh toán; phát hành công cụ chuyển nhượng, thẻ ngân hàng, lệnh chuyển tiền; bảo lãnh ngân hàng, cam kết tài chính; cung ứng dịch vụ ngoại hối, các công cụ tiền tệ trên thị trường tiền tệ; môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán; quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán; kinh doanh bảo hiểm nhân thọ; đổi tiền
(7) Kinh doanh trò chơi có thưởng, bao gồm trò chơi điện tử có thưởng; trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet; casino; xổ số; đặt cược; kinh doanh bất động sản, trừ hoạt động cho thuê, cho thuê lại bất động sản và dịch vụ tư vấn bất động sản; kinh doanh kim khí quý, đá quý; kinh doanh dịch vụ kế toán; cung cấp dịch vụ công chứng; cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; cung cấp dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; cung cấp dịch vụ giám đốc, thư ký doanh nghiệp cho bên thứ ba; cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý
(8) Theo Điều 22 của Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 và/hoặc Điều 26 của Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022
(9) Theo khoản 14, Điều 28 và khoản 8, khoản 9, Điều 29 của Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 quy định về các dấu hiệu đáng ngờ có liên quan đến tội phạm công nghệ cao, các giao dịch trực tuyến qua tài khoản liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ giao thức internet (sau đây gọi là địa chỉ IP) ở nước ngoài; các giao dịch trực tuyến qua ví điện tử liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ IP; khách hàng thường xuyên sử dụng thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ IP ở nước ngoài để truy cập vào ví điện tử hoặc thực hiện giao dịch trên ví điện tử; khách hàng thường xuyên sử dụng một thiết bị đăng nhập hoặc một địa chỉ IP để thực hiện giao dịch trên nhiều ví điện tử không cùng một chủ ví điện tử
(10) Một vấn đề được đề cập liên quan đến nội dung này là khái niệm tội phạm nguồn - tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự và tài sản có được từ tội phạm đó trở thành đối tượng của tội rửa tiền được quy định tại Điều 3 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP, ngày 24-5-2019
(11) Một số dấu hiệu đáng ngờ đối với các giao dịch liên quan đến tiền ảo, tài sản ảo, như cá nhân/tổ chức nhận tiền chuyển từ cá nhân/tổ chức khác nhau, nội dung chuyển tiền là các ký hiệu đặc biệt liên quan đến tiền điện tử; cá nhân có các giao dịch nhận tiền từ sàn giao dịch tiền ảo tại nước ngoài; đối tượng là người Việt Nam liên kết, móc nối với đối tượng ở nước ngoài sử dụng nhiều thủ đoạn để lừa đảo, sau khi nhận được tiền của người bị hại do lừa đảo và có qua tài khoản ngân hàng, đối tượng đã chuyển tiền qua nhiều tài khoản ngân hàng khác nhau để mua, bán tiền ảo trên các sàn giao dịch tiền ảo (Huobi, Binance,...) rồi rút tiền ở nước ngoài để chiếm đoạt
Mối quan hệ giữa Nhà nước - doanh nghiệp - tổ chức đại diện người lao động trong thực hiện an sinh xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư  (17/05/2024)
Phát triển công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới  (09/03/2024)
Tạo động lực cho trí thức Việt Nam phát triển đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư  (15/11/2023)
Phát triển truyền hình đa nền tảng trong kỷ nguyên số ở Việt Nam  (15/11/2023)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển