Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng để phát huy dân chủ trong thời kỳ đổi mới
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân"(1). Dân chủ là một thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, đồng thời cũng chính là bài học quan trọng rút ra từ quá trình lãnh đạo nhạy bén, tài tình của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là khát vọng sâu xa của con người. Cuộc đấu tranh diễn ra suốt lịch sử nhân loại chính là cuộc đấu tranh giành dân chủ của những người bị áp bức, bóc lột. Cũng như nhiều giá trị khác của xã hội loài người, dân chủ cũng có những tính chất như: tất yếu, giai cấp, lịch sử cụ thể, chủ thể... và bị quy định bởi bản sắc văn hóa, đặc trưng sắc tộc, chế độ chính trị, tôn giáo, tín ngưỡng...
Dân chủ bao giờ cũng được biểu hiện trong hiện thực hết sức phong phú, đa dạng với những trình độ, cấp độ rất khác nhau. Nền dân chủ của các xã hội khác nhau có những nét tương đồng nhưng cũng có những nét khác biệt. Chính nét tương đồng, đặc điểm chung làm nên giá trị nhân loại phổ biến của dân chủ. Nền dân chủ của mỗi quốc gia phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí... và năng lực thực hành dân chủ của đông đảo quần chúng của quốc gia ấy. Không có một nền dân chủ chung chung, không bản sắc phù hợp với mọi quốc gia, mọi dân tộc. Do đó, không thể mang nền dân chủ của xã hội này làm khuôn mẫu áp đặt cho nền dân chủ của xã hội khác.
Chủ nghĩa xã hội là giải phóng toàn bộ nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột. Vì thế, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ kiểu mới. Mặc dù kế thừa các giá trị quý báu của mọi nền dân chủ đã có của nhân loại, nhưng nó có đặc điểm riêng. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, không có dân chủ nghĩa là không có chủ nghĩa xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là sự hiện thực hóa khát vọng dân chủ của toàn thể nhân dân lao động.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ và sự lãnh đạo của Đảng để phát huy dân chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng ta, tư tưởng của Người chính là kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam. Về dân chủ, Người khẳng định, nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều thuộc về dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người giải thích, dân chủ có nghĩa là dân là chủ, dân làm chủ. Người chỉ rõ, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Đối với Người, thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng giải quyết mọi khó khăn. Vì thế, Người khẳng định: có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Người căn dặn: lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc của con người cũng là mất dân chủ.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn đề cao dân chủ và không ngừng phát huy dân chủ trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX, trước những đảo lộn lớn trong đời sống chính trị thế giới và những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn đất nước, Đảng ta đã nhậy bén, kịp thời lãnh đạo nhân dân đổi mới toàn diện đất nước. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng - Đại hội đổi mới chỉ rõ: "trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động"(2). Đây chính là những tư tưởng trọng yếu làm cơ sở lý luận và thực tiễn để thực hiện dân chủ và phát huy dân chủ trong quá trình đổi mới đất nước.
Cùng với quan điểm "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", quan điểm "lấy dân làm gốc" và phương châm: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" của Đại hội VI, đã tạo ra một động lực, một luồng sinh khí, một phong trào cách mạng mới cho đất nước. Nhưng dân chủ luôn luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội. Dân chủ hóa đời sống xã hội càng đạt được thành tựu to lớn thì trình độ nhận thức và thực hành dân chủ của nhân dân về dân chủ càng được nâng cao, và do đó, nhu cầu về dân chủ của người dân cũng được nâng lên một tầm mới. Vì thế, không ngừng mở rộng và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội là một đòi hỏi tất yếu của đời sống.
Phát triển tư tưởng về dân chủ, Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nội dung: "Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của nhà nước do dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp"(3).
Tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: "Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nội dung cơ bản đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước"(4). Tư tưởng quan trọng này chính là cơ sở của Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Bộ Chính trị chỉ rõ phải ban hành Chỉ thị này là vì: "quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống"(5); và, "Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành Quy chế Dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện"(6).
Cùng với việc đề ra phương hướng, chiến lược phát triển đất nước một cách toàn diện và lâu dài, tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: "Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở tất cả các cấp, các ngành"(7). Cụ thể hóa các quan điểm này, Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX), chỉ rõ: "thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật"(8).
Như vậy, trong suốt quá trình đổi mới, Đảng ta đã có sự lãnh đạo nhất quán, liên tục về dân chủ, thực hiện phương châm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều xuất phát từ thực tiễn và lấy dân làm gốc; mọi hành động cách mạng đều thực sự của dân, do dân và vì dân; kiên quyết thực hiện nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra... Những tư tưởng cơ bản về dân chủ được Đảng ta thể hiện ngày càng sâu sắc và cụ thể qua các kỳ đại hội. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, để đáp ứng kịp thời nhu cầu của đời sống xã hội, sự lãnh đạo của Đảng ta về dân chủ đã được nâng lên một tầm cao mới.
Sự kiện nổi bật trong quá trình Đảng lãnh đạo phát huy dân chủ trong thời kỳ đổi mới là việc ban hành Chỉ thị 30-CT/TW Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở của Bộ Chính trị. Đây vừa là kết quả tất yếu của quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện dân chủ, vừa thực sự là bước đột phá quyết định để phát huy dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị đã tạo ra một bước ngoặt cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với vấn đề dân chủ trong quá trình đổi mới. Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở là bước triển khai cụ thể những tư tưởng của Đảng về phát huy dân chủ trong thực tiễn đời sống. Đó cũng là sự đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình mở rộng và phát huy dân chủ trong điều kiện mới. Vì lẽ đó, cùng với tiếp tục những tư tưởng về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị"(9) trong giai đoạn hiện nay là việc làm có ý nghĩa quyết định những thắng lợi tiếp theo của công cuộc đổi mới.
Đảng lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở
Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị ra đời thực sự đáp ứng kịp thời những đòi hỏi vô cùng bức xúc của người dân ở cơ sở. ở nước ta, cơ sở tồn tại với 3 loại hình phổ biến là: xã, phường, thị trấn; cơ quan hành chính, sự nghiệp; và, các doanh nghiệp nhà nước. Cơ sở là nền tảng, là tế bào tạo dựng nên một xã hội nhất định. Đó là địa bàn sinh sống cụ thể của người dân, là nơi mọi người lao động, sản xuất tạo ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Cơ sở chính là thực tiễn cuộc sống, vì vậy, nó vừa là điểm xuất phát của mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vừa là nơi triển khai thực hiện, kiểm định và bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ đem lại quyền dân chủ trực tiếp cho người dân. Đó là điều kiện và tiền đề để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng, thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, chống quan liêu, cửa quyền, chuyên quyền, chống tham ô, lãng phí, bè phái, cơ hội... góp phần ổn định và lành mạnh đời sống xã hội.
Để thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa X) đã ban hành các nghị quyết số 45/1998, số 55/1998 và số 60/1998 giao cho Chính phủ ban hành các nghị định về thực hiện Quy chế Dân chủ ở 3 loại hình cơ sở. Chính phủ đã ban hành 3 nghị định là: Nghị định số 29/1998NĐ-CP Quy chế thực hiện Dân chủ ở xã (11-5-1998); Nghị định số 71/1998/NĐ-CP Quy chế thực hiện Dân chủ trong hoạt động của các cơ quan (8-9-1998); và Nghị định số 07/1999/NĐ-CP Quy chế thực hiện Dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước (13-2-1999). Triển khai Chỉ thị 30, Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế Dân chủ từ trung ương đến cơ sở đã được thành lập. Ngày 28-3-2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã ra Chỉ thị số 10-CT/TW Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị và triển khai các nghị định của Chính phủ về Quy chế Dân chủ ở cơ sở, chỉ một thời gian ngắn, từ trung ương đến địa phương; từ bộ, ban, ngành đến các doanh nghiệp, nhà máy, xí nghiệp đều thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Trưởng Ban thường là người lãnh đạo cao nhất của Đảng hoặc của chính quyền tại địa phương. Ban chỉ đạo vừa có chức năng trực tiếp chỉ đạo thực hiện xây dựng và triển khai Quy chế Dân chủ ở cơ sở vừa có chức năng tham mưu cho cấp ủy để cấp ủy kịp thời chỉ đạo.
Sau 9 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở trong cả nước đã từng bước nâng lên một chất lượng mới và đã đi vào cuộc sống có nề nếp. Quy chế Dân chủ ở cơ sở đúng là ý Đảng lòng dân. Nó đáp ứng nguyện vọng thiết tha của người dân ở cơ sở, nhất là ở nông thôn. Nó thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng khắp của đông đảo quần chúng nhân dân. Bầu không khí dân chủ và ý thức dân chủ, ý thức chấp hành pháp luật của người dân được nâng lên rõ rệt.
Ở nông thôn, thực hiện Nghị quyết 29/1998/NĐ-CP, các xã, phường, thị trấn đều đã xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở; đồng thời, các thôn, bản, tổ dân phố, đều xây dựng và triển khai các nội quy, quy ước, hương ước... Thực tiễn cho thấy, nơi nào thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở đều tạo ra bầu không khí phấn khởi, nhiệt tình của đông đảo nhân dân; kinh tế tăng trưởng cao; an ninh, trật tự được bảo đảm; khiếu kiện và các tệ nạn xã hội giảm mạnh; chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên được nâng cao rõ rệt; tính tự quản cộng đồng được đề cao và phát huy tác động tích cực trong đời sống xã hội nông thôn.
Thực hiện Nghị quyết 71/1998/NĐ-CP ở các cơ quan hành chính, sự nghiệp được gắn liền với quá trình cải cách hành chính tổng thể trong cả nước. Tất cả các cơ quan đều xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; đồng thời, đã rà soát, bổ sung và ban hành các nội quy, quy chế, quy ước nhằm thực hiện công khai, minh bạch nhằm dân chủ hóa cơ quan. Những cơ quan thực hiện tốt Quy chế Dân chủ đã tạo được bầu không khi lành mạnh, cởi mở, phấn khởi trong cán bộ, công chức; các hiện tượng tiêu cực như: độc đoán, chuyên quyền, tham nhũng, bè phái, trù dập... từng bước được ngăn chặn, hạn chế.
Thực hiện Nghị định 07/1999/NĐ-CP, các doanh nghiệp nhà nước hầu như đều xây dựng, ban hành Quy chế Dân chủ ở cơ sở; đồng thời, ban hành nhiều nội quy, quy định mới hướng tới thực hiện công khai, dân chủ trong công ty, xí nghiệp. Tuy nhiên, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở trong loại hình doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ nhiều hạn chế. Dẫu vậy, đơn vị nào thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở thì đều đã tạo điều kiện để người lao động trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh và kịp thời phát hiện những bất hợp lý, lãng phí, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực. Vì thế, đã khuyến khích được tinh thần lao động, sáng tạo của công nhân, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống người lao động.
Thành tựu đạt được khi thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và mấy vấn đề cần quan tâm hiện nay
Từ thực tiễn sự lãnh đạo của Đảng xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở thời gian qua, có thể nêu một số thành tựu sau:
- Đã làm thay đổi cơ bản nhận thức của người dân và của cả hệ thống chính trị về dân chủ, quyền dân chủ, về chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa;
- Bước đầu phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sản xuất, kinh doanh và là động lực trực tiếp phát triển kinh tế ở cơ sở;
- Tạo ra bầu không khí phấn khởi, cởi mở trong xã hội cả nông thôn và thành thị, góp phần thúc đẩy xây dựng đời sống văn hóa - xã hội ở cơ sở lành mạnh, môi trường trong sạch;
- Là một phương thức, một giải pháp hữu hiệu để giải quyết các thắc mắc, tháo gỡ những bức xúc ở cơ sở góp phần thiết thực giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở;
- Tăng cường và củng cố vai trò lãnh đạo, thúc đẩy đổi mới phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng ở cơ sở. Góp phần nâng cao uy tín của Đảng ở cơ sở;
- Góp phần tích cực vào chương trình cải cách hành chính, xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh;
- Góp phần nâng cao vai trò và vị trí của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; thúc đẩy sự đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân cho phù hợp với tình hình mới...
Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng trên nhưng vẫn còn một số nơi, một số địa phương, cơ quan, đơn vị, sự lãnh đạo của Đảng đối với việc triển khai thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đó là do:
- Lãnh đạo ở các cơ sở này chưa nhận thức đầy đủ vai trò và ý nghĩa của Quy chế Dân chủ, vì vậy, thiếu tập trung chỉ đạo kịp thời;
- Không có những biện pháp tuyên truyền tích cực và phù hợp nhằm làm thay đổi nhận thức của cán bộ và nhân dân về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, và vai trò của dân chủ trong đời sống;
- Không thường xuyên tuyên truyền, vận động làm cho người dân thấu hiểu ý nghĩa to lớn của việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở;
- Quá trình thực hiện Quy chế Dân chủ ở một số nơi còn mang tính chất hình thức, chiếu lệ;
- Nhiều nơi quy chế, quy ước, hương ước thực hiện dân chủ ở cơ sở được xây dựng nhưng, hoặc thiếu thực tiễn, không gắn liền với những vấn đề bức xúc ở địa phương, hoặc còn dài dòng, rắc rối, khó hiểu vì vậy khó thực hiện và kém hiệu quả.
Trên cơ sở thành tựu và hạn chế nêu trên, để đưa cuộc vận động thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở lên một bước mới, hiệu quả, thiết thực hơn theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, thời gian tới cần tập trung vào một số vấn đề sau:
- Tiếp tục quán triệt sâu sắc Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị; tích cực triển khai nghiêm túc các Nghị định 29/1998/NĐ-CP, 71/1998/NĐ-CP, 07/1999/NĐ-CP của chính phủ và Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư; đồng thời, ban hành những văn bản mới của Đảng và chính phủ nhằm kịp thời chỉ đạo, điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
- Gắn việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, văn hóa - môi trường; với việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; với cải cách hành chính; với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn bộ máy chính quyền, nâng cao vai trò và địa vị của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng.
- Thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở cần đồng thời xây dựng quy chế phối hợp hoạt động đồng bộ, thống nhất giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm tích cực xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch và vững mạnh.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ cương, kiên quyết xử lý những phần tử lợi dụng dân chủ gây mất đoàn kết nội bộ, mất ổn định xã hội.
- Cần đặc biệt quan tâm củng cố và kiện toàn hệ thống Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở từ trung ương đến cơ sở để Ban tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian tới.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr 29
(3) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 19
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 44
(5), (6) Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr 9, 10
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 124
(8) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 167
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã dẫn, tr 44
Văn học nghệ thuật và hội nhập  (10/04/2007)
Lạng Sơn phát triển kinh tế trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế  (10/04/2007)
Bắc Giang đẩy mạnh phát triển kinh tế  (10/04/2007)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển