Xã hội tri thức - Công cụ đầy hứa hẹn để phát triển con người và xã hội bền vững

Nguyễn Văn Dân PGS, TS. Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam
14:13, ngày 25-08-2015

TCCSĐT - Xã hội tri thức là một kiểu xã hội dựa trên việc không ngừng sản xuất và sử dụng hàng loạt tri thức trong mọi lĩnh vực, với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại, để phát triển con người trên toàn hành tinh một cách công bằng, an sinh và bền vững.

Năm trụ cột xây dựng xã hội tri thức

Việc sản xuất và sử dụng tri thức thông qua môi trường giáo dục - đào tạo và nghiên cứu - triển khai đã làm gia tăng giá trị của tri thức trong tất cả các ngành kinh tế, khoa học và công nghệ, được đặc trưng bằng những cái tên: kinh tế tri thức và công nghệ cao. Một kiểu xã hội như vậy có thể được xây dựng và phát triển ở mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Như vậy, cần phải hiểu xã hội tri thức hiện đại không chỉ từ góc độ kinh tế và công nghệ. Xã hội tri thức mang ý nghĩa nhân quyền. Và vì thế, có ý nghĩa đạo đức nhân văn cao cả. Đó cũng chính là lý do tồn tại của xã hội tri thức bền vững mà chúng ta cần phải làm cho nó trở thành hiện thực càng sớm càng tốt và phải được xây dựng bằng năm trụ cột sau đây:

Trụ cột chính trị

Những nỗ lực để xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin đầu tiên của xã hội thông tin và của xã hội tri thức hiện đại là thuộc về chủ trương của chính phủ. Không có chính sách và những quy định hợp lý, không có sự điều hành của chính phủ đối với kết cấu hạ tầng thông tin thì xã hội thông tin và sau đó là xã hội tri thức không thể hình thành được.

Mặt khác, việc xây dựng xã hội tri thức trước tiên là công việc của người dân các nước chứ không phải chỉ là công việc của khoa học và công nghệ. Và để bảo đảm cho người dân phát huy được tiềm năng của mình, chính phủ cần phải phát huy vai trò lãnh đạo theo tinh thần dân chủ và bảo đảm thực thi dân quyền và nhân quyền cho người dân.

Như vậy, Trụ cột chính trị có một vị trí quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người và quyền dân chủ cho nhân dân để xây dựng một xã hội thông tin toàn cầu và xã hội tri thức trong tương lai.

Trụ cột kinh tế tri thức

Theo các nhà nghiên cứu, kinh tế tri thức là một nền kinh tế dựa trên tri thức, nó đề cập đến việc sử dụng tri thức để tạo ra những lợi ích về mặt kinh tế. Năm 1996, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) xác định khái niệm “kinh tế tri thức” là “nền kinh tế dựa trên tri thức, trực tiếp căn cứ vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin”(1).

Đặc điểm nổi bật nhất của kinh tế tri thức là sự mở rộng không ngừng của khu vực thông tin và truyền thông. Sự mở rộng của khu vực này có thể được chia thành hai cấp độ: một là bản thân sự phát triển của khu vực thông tin và truyền thông đã đem lại lợi ích kinh tế vô cùng to lớn cho nền kinh tế tri thức; hai là sự phát triển của nó đã làm gia tăng vượt bậc hiệu quả kinh tế cho hầu hết các ngành nghề của nền kinh tế tri thức. Các nhà nghiên cứu đã gọi cấp độ thứ nhất là khu vực thông tin sơ cấp, còn cấp độ thứ hai là khu vực thông tin thứ cấp. Khu vực sơ cấp bao gồm việc sản xuất, phân phối và xử lý các sản phẩm và dịch vụ thông tin; khu vực thứ cấp thể hiện ở khối lượng phí tổn về thông tin cần thiết cho việc tổ chức của các công ty và cho việc điều phối các thị trường.

Ở khu vực thông tin thứ cấp trong nền kinh tế tri thức, chúng ta phải nói đến một lĩnh vực nổi bật nhất hiện nay là “thương mại điện tử”. Thương mại điện tử là việc mua và bán các sản phẩm hoặc dịch vụ thông qua các hệ thống điện tử như internet và các mạng máy tính khác. Kể từ khi có mạng internet, khối lượng buôn bán được thực hiện bằng con đường điện tử đã gia tăng với mức độ vô cùng ấn tượng. Tuy nhiên, mặc dù gọi là thương mại điện tử, nhưng chỉ có một tỷ lệ phần trăm rất nhỏ công việc của loại hình dịch vụ này là công việc “ảo” được thực hiện hoàn toàn bằng con đường điện tử, như việc truy cập nội dung trả tiền trên một website, còn lại thì hầu hết các công việc của thương mại điện tử đều thực hiện bằng con đường vật chất hữu hình: ít nhất thì người ta cũng phải giao hàng cho khách bằng những cách vận chuyển thực tế. Chỉ có điều, cái phần công việc “ảo” rất ít đó lại quyết định tính chất và sự thành công của thương mại điện tử, và vì thế nó quy định tên gọi của loại hình dịch vụ này.

Trụ cột khoa học - công nghệ

Khoa học và công nghệ luôn là đòn bẩy phát triển của mọi xã hội. Trong xã hội tri thức, vai trò của khoa học và công nghệ lại càng quan trọng. Hiện tại, người ta đang nói đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra vào thế kỷ XX, xuất hiện cùng với sự bùng nổ của các ngành công nghệ cao (là những công nghệ dựa vào những thành tựu khoa học mới nhất với hàm lượng tri thức và hàm lượng khoa học, sáng tạo cao nhất. Hiện người ta nói đến bốn công nghệ chính trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ mới. Đó là công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu; công nghệ năng lượng; và công nghệ thông tin), đặc biệt là vào nửa cuối thế kỷ XX, khi một loạt công nghệ mới ra đời như công nghệ vi điện tử, máy tính, quang điện tử, lade, vật liệu mới, hạt nhân, gen, tế bào,... Sự phát triển bùng nổ của các công nghệ cao này chính là đặc trưng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ở thế kỷ XX (2).

Sự phát triển công nghệ cho thấy khoa học và công nghệ ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mặc dù với mức chi cho khoa học còn thấp trong tỷ lệ GDP (1 - 2%), nhưng đóng góp của nó cho GDP lại lớn gấp rất nhiều lần (30 - 40%). Với ích lợi to lớn của khoa học như vậy, các nước phát triển hiện nay rất chú trọng đến lĩnh vực nghiên cứu và triển khai.

Trụ cột giáo dục và đào tạo

Trong xã hội tri thức, thông tin và tri thức là những khái niệm chủ chốt. Nhưng thông tin và tri thức không tồn tại độc lập, bất biến, mà chúng luôn chuyển hóa lẫn nhau. Và sự chuyển hóa đó được diễn ra trong môi trường và đường dẫn của giáo dục và đào tạo.

Một điều hoàn toàn có ý nghĩa đặc thù cho thời đại thông tin và tri thức hiện đại là khái niệm giáo dục cũng được hiểu theo một nghĩa mở rộng. Giáo dục không chỉ giới hạn trong phạm vi của môi trường chính quy, mà nó còn có nghĩa là tự giáo dục, tự đào tạo, tự học. Mà điều này được hỗ trợ một cách có hiệu quả nhờ có công nghệ thông tin và truyền thông. Đó chính là lý do tại sao ngay từ khi khái niệm “xã hội thông tin” và khái niệm “xã hội tri thức” ra đời đã xuất hiện khái niệm “xã hội học tập”, với nghĩa là một hệ thống học tập suốt đời cho tất cả mọi người.

Trong xã hội tri thức, thông tin và tri thức ngày càng có hàm lượng cao trong mọi ngành nghề kinh tế và mọi lĩnh vực của đời sống. Trong tinh thần tuân thủ các mục tiêu quốc tế về giáo dục, các quốc gia cũng tự đề ra chính sách giáo dục của riêng mình để khuyến khích giáo dục và đáp ứng quyền được giáo dục của mọi người dân. Hầu hết các nước đều thực thi chính sách giáo dục miễn phí cho học sinh tiểu học. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có những nước còn mở rộng chính sách này cho một phần bậc học phổ thông. Ngoài ra có nhiều nước còn mở rộng việc hỗ trợ học phí cho cả sinh viên ở bậc đại học. Tuy nhiên, việc hỗ trợ này mới chỉ thực hiện được ở các trường công lập.

Trụ cột ý thức về phát triển bền vững

Ý thức này sẽ đặt sự phát triển kinh tế trong mối quan hệ với phát triển văn hóa và với ý thức về an toàn môi trường, an toàn xã hội và an toàn con người. Muốn thế, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu sau:

Một là, nhận thức đúng đắn về vai trò của môi trường và có hành động bảo vệ môi trường. Đó là cơ sở văn hóa đầu tiên của phát triển bền vững.

Hai là, có ý thức nghiêm túc về vấn đề dân số để tạo một cơ sở quan trọng cho phát triển bền vững.

Ba là, giáo dục đạo đức trong sản xuất, kinh doanh và quản lý như là một cơ sở để bảo đảm công bằng xã hội.

Bốn là, bảo đảm cho mọi người dân được quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa.

Năm là, xây dựng văn hóa hòa bình như là một nền tảng an ninh chủ chốt cho phát triển bền vững.

Nhìn vào các điều kiện trên đây, chúng ta thấy kinh tế chỉ là một điều kiện của xã hội tri thức bền vững, bốn điều kiện còn lại đều là những điều kiện thuộc về văn hóa hoặc liên quan đến văn hóa. Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu là phải quan tâm đến con người. Bởi, con người vẫn là trung tâm và mục tiêu của công cuộc phát triển.

Con đường phát triển xã hội tri thức ở Việt Nam

Với việc quan tâm đến kinh tế tri thức, công nghệ cao, xã hội học tập,... Việt Nam đã và đang thâm nhập được vào địa hạt của xã hội tri thức. Từ năm 1993, Nghị quyết số 49/CP của Chính phủ đã chỉ rõ quan điểm chiến lược về phát triển công nghệ thông tin, nhằm xây dựng những nền móng bước đầu vững chắc cho một kết cấu hạ tầng thông tin trong xã hội, (...) đồng thời xây dựng ngành công nghiệp công nghệ thông tin thành một trong những ngành mũi nhọn của đất nước, góp phần chuẩn bị cho nước ta có vị trí xứng đáng trong khu vực khi bước vào thế kỷ XXI. Ngày 17-10-2000, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa giai đoạn 2001 - 2005. Đến Đại hội IX (năm 2001), Đảng lại nhắc lại sự cần thiết phải kết hợp công nghệ sinh học với công nghệ thông tin trong nông nghiệp và kinh tế… Như vậy, công nghệ thông tin đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ rất sớm. Đối với nền kinh tế tri thức, Đảng cũng đã có ý thức về nó từ đầu thế kỷ XXI. Đại hội IX của Đảng đã nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”(3). Một điều mới mẻ và phù hợp với mục tiêu của xã hội tri thức hiện đại là tại Đại hội IX, Báo cáo chính trị của Đảng đã đề ra chủ trương xây dựng “xã hội học tập”.

Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng nhấn mạnh tất cả các thành tố quan trọng của xã hội tri thức. Điểm mới trong Báo cáo chính trị và Báo cáo về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 - 2010) là Đảng đã bổ sung thêm khái niệm “hệ thống học tập suốt đời cho tất cả mọi người”(4). Đây là những khái niệm đang được thế giới bàn đến và được coi là những khái niệm chủ chốt của xã hội tri thức. Đến Đại hội XI (năm 2011), trong Báo cáo chính trị cũng như trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng cũng mới chỉ nhắc đến phát triển “kinh tế tri thức” và xây dựng “xã hội học tập” chứ chưa nói đến “xã hội tri thức”. Dự thảo Đại hội XII nhấn mạnh: “phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ của các ngành, lĩnh vực”(5).

Phải khẳng định rằng, cộng đồng quốc tế không quan niệm xã hội tri thức là một mô hình xã hội mang tính thuần túy chính trị. Nó là sự phát triển cao của lực lượng và trình độ sản xuất, của các lĩnh vực khoa học - công nghệ, của trình độ tổ chức xã hội để phục vụ cho sự phát triển bền vững của con người. Đồng thời, chúng ta cũng có thể hiểu rằng sự phát triển đi lên xã hội tri thức không phải là một cuộc cách mạng thay thế chế độ xã hội. Như thế, các xã hội tri thức với những đặc thù văn hóa và chế độ chính trị khác nhau vẫn có thể cùng tồn tại và hợp tác với nhau để thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên nhiên kỷ của Liên hợp quốc.

Trong tinh thần đó, nước ta có thuận lợi đầu tiên là có một chế độ chính trị ổn định thống nhất trên cả nước. Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Những mục tiêu đó cũng chính là những mục tiêu của xã hội tri thức mà cộng đồng quốc tế đang đặt ra. Và đây sẽ là cơ sở vững chắc để chúng ta hy vọng vào khả năng xây dựng một xã hội tri thức mang bản sắc Việt Nam. Bên cạnh đó, nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú. Mặc dù không còn giữ vai trò độc tôn như trước đây, nhưng nguồn tài nguyên thiên nhiên vẫn không hề mất đi giá trị quan trọng của nó. Bức tranh địa - kinh tế thế giới chưa phải là đã hết vai trò. Cuối cùng không thể không nói đến thế mạnh nguồn nhân lực dồi dào. Hiện tại, con người Việt Nam đang được phát triển theo chiều hướng tiến bộ toàn diện. Những năm gần đây, giá trị tuyệt đối của chỉ số phát triển con người của Việt Nam theo Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) luôn được tăng lên.

Con đường xây dựng và phát triển xã hội tri thức còn rất dài và có nhiều khó khăn, thách thức, nhưng dựa vào tiềm lực và nguồn lực hiện nay, chúng ta không có lý do gì để không hy vọng vào tương lai tốt đẹp của một xã hội tri thức mang bản sắc Việt Nam./.

------------------------------------------

(1) Trích theo Thế Trường, Hành trang thời đại kinh tế tri thức, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội, 2004, tr. 44

(2) Đặng Hữu (chủ biên), Phát triển kinh tế tri thức: Rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 18

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 13

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 95, tr. 207

(5) Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, tr. 15