Tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta trong đổi mới
TCCS - Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới ở nước ta cho thấy, tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là những vấn đề mấu chốt của lý luận đổi mới, cũng là những nội dung rất căn bản của lý luận phát triển ở nước ta. Giải quyết hợp lý và đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là những đòi hỏi tất yếu của phát triển, trực tiếp nhất là phát triển kinh tế và xã hội, hướng tới phát triển bền vững ở nước ta.
1 - Tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội là những đòi hỏi tất yếu của phát triển, hướng tới phát triển bền vững
Khi khởi xướng đường lối đổi mới tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta nhấn mạnh các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh.
Đến Đại hội VII, khi thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2000, Đảng ta đã bổ sung một mục tiêu quan trọng là “công bằng xã hội”. Một luận điểm được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội là “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với từng bước thực hiện công bằng xã hội”. Đây là lúc chúng ta đang phải tập trung khắc phục lạm phát và khủng hoảng kinh tế - xã hội, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, chú trọng giải phóng mọi tiềm năng xã hội, phát triển lực lượng sản xuất vốn đang còn rất lạc hậu và chậm phát triển ở nước ta. Giải phóng là một tư tưởng lớn của đổi mới mà trước hết là giải phóng sức sản xuất để giải phóng mọi tiềm năng của xã hội, cả vật chất lẫn tinh thần. Phát triển mạnh mẽ kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường, dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội với cơ chế dân chủ, thực hiện dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị, đổi mới hệ thống chính trị, mọi thành phần kinh tế, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, mọi công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm... đó là hai dòng chuyển động lớn của xã hội ta trong thời kỳ đổi mới. Nhờ đó, xã hội đã nhanh chóng ra khỏi trạng thái trì trệ với sức ì rất lớn do thiếu động lực nội tại để phát triển, nhanh chóng trở nên năng động, tích cực. Từ chỗ triền miên thiếu lương thực (mà đây chỉ là hiện tượng thiếu giả tạo, hậu quả của một thời “ngăn sông, cấm chợ”, ách tắc lưu thông phân phối), Việt Nam nhanh chóng trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Tăng trưởng kinh tế là mức tăng về lượng, về tốc độ của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, tăng năng suất lao động xã hội, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong xã hội. Tăng trưởng là điều kiện của phát triển, của tiến bộ, đó là tiền đề về vật chất - kinh tế để thực hiện công bằng. Một xã hội có nền kinh tế phồn vinh, giàu có phải là một xã hội đạt được và duy trì được sức tăng trưởng kinh tế, cũng như vậy, những dấu hiệu trì trệ và suy thoái, thậm chí khủng hoảng (gắn với lạm phát) phải nhận biết từ mức tăng trưởng chậm lại, giảm sút tăng trưởng. Không có một nền kinh tế tăng trưởng thì không thể có tiềm lực vật chất để tiếp tục đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, không có vốn và các nguồn lực nói chung để có thể tái sản xuất mở rộng, càng không thể có điều kiện vật chất để cải thiện, nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư.
Trong quan hệ với tiến bộ và phát triển, nếu tăng trưởng kinh tế là điều kiện và tiền đề thì tiến bộ và phát triển là kết quả và công bằng xã hội là động lực và mục tiêu của quá trình tăng trưởng, tiến bộ và phát triển. Nói một cách khác, công bằng xã hội đóng vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, là nhân tố bảo đảm ổn định và lành mạnh xã hội, kể cả xác lập ổn định tích cực của chính trị, là động lực đồng thời là mục tiêu của đổi mới để phát triển đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công bằng xã hội thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội, là một trong những giá trị mà sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta hướng tới. Đây không chỉ là giá trị đặc trưng riêng có của chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, chế độ xã hội nào muốn được lòng dân, muốn tồn tại cũng phải quan tâm giải quyết yêu cầu về công bằng xã hội. Chế độ chính trị nào thì mang bản chất của giai cấp cầm quyền, thống trị ấy. Muốn duy trì địa vị quyền lực của mình, giai cấp cầm quyền dù là giai cấp bóc lột, có mâu thuẫn và xung đột với đa số dân chúng trong xã hội về lợi ích thì trong khi thực thi quyền lực, họ cũng phải đáp ứng yêu cầu công bằng xã hội, thực hiện những lợi ích chung của cộng đồng xã hội, ở một mức độ nào đó.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ kiểu mới, do bản chất kinh tế và chính trị ưu việt của nó càng phải chú trọng thực hiện mục tiêu công bằng, càng phải chứng tỏ trong thực tế việc thực hiện công bằng xã hội đạt ở mức độ phổ biến, rộng rãi trong xã hội, đạt được những thành tựu to lớn, bền vững hơn so với các chế độ trước đó, đem lại sự thụ hưởng lợi ích chính đáng cho số đông dân chúng. Đó là xét về mặt nguyên tắc, về mặt lý luận. Trong thực tế, giải quyết vấn đề công bằng xã hội khó khăn, phức tạp hơn nhiều vì nó liên quan tới các mối quan hệ về lợi ích, về phát triển, các quan hệ giai cấp và xã hội, các phương thức tổ chức quản lý xã hội, các chính sách và cơ chế quản lý. Trước đổi mới, khi chưa áp dụng kinh tế thị trường, cơ chế thị trường, việc giải quyết công bằng xã hội gặp không ít khó khăn. Nhận thức sai lầm, coi công bằng là bình quân, chia đều, lại không đánh giá đúng vai trò của lực lượng sản xuất, quan hệ giữa các chủ thể lợi ích trong xã hội... nên trong quản lý thường không khai thác có hiệu quả các động lực phát triển mà một trong những động lực mạnh nhất là công bằng, thúc đẩy mọi người tham gia các hoạt động kinh tế và xã hội nhằm đạt được tiến bộ, phát triển.
Tiến bộ nói lên mức độ biến đổi tích cực theo chiếu hướng tăng lên so với trước về một lĩnh vực hoạt động, một chỉ tiêu sản xuất, một chất lượng sản phẩm hay hiệu quả xã hội của một chính sách nào đó. Có tiến bộ từng mặt, từng lĩnh vực đến tiến bộ trong tổng thể các mặt, trong hệ thống chỉnh thể các lĩnh vực. Đó là tiến bộ xã hội. Phát triển và tiến bộ là những khái niệm rất gần nhau nhưng không phải lúc nào cũng đồng thuận thống nhất. Có trường hợp đạt được tiến bộ nhưng chưa hẳn đã là phát triển. Cũng có trường hợp mang dấu hiệu của phát triển nhưng xét trên ý nghĩa xã hội và chất lượng nhân văn thì chưa hẳn đã là tiến bộ. Đổi mới của Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng cao, liên tục trong nhiều năm, tăng trưởng kinh tế là rất rõ rệt, song xét trên toàn cục, nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nuớc và nhân dân ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu hoàn thành chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn để cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Xét trên từng lĩnh vực, đổi mới đã đem lại những dấu mốc tiến bộ trong kinh tế, xã hội, văn hóa, trong lĩnh vực chính trị, việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta cũng đạt được nhiều tiến bộ, song phát triển toàn diện, cân đối và bền vững thì vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Những nỗ lực trong quản lý nhà nước đã thực hiện được trên một số mặt về công bằng xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong từng bước đi, trong từng chính sách như văn kiện Đại hội X đã chỉ ra, song bất bình đẳng trong xã hội, bất công bằng xã hội còn nhiều, từ thụ hưởng lợi ích đến tiếp cận các dịch vụ xã hội, các cơ hội phát triển, đối với các tầng lớp dân cư xã hội khác nhau, các địa phương, vùng, miền khác trong cả nước. Tỷ lệ đói nghèo trong dân cư, nhất là ở nông thôn, ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Nông dân chiếm tỷ lệ lớn trong dân số nước ta (60 triệu trên tổng số hơn 80 triệu dân) vẫn là đối tượng chịu nhiều thua thiệt trong phát triển, trong đó đáng lưu ý là số người nghèo, hộ nghèo, mất đất sản xuất và chưa được đào tạo nghề để ổn định cuộc sống. Ngay công nhân, người lao động và một bộ phận trí thức, thuộc về những lực lượng cơ bản của xã hội vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống hằng ngày cũng như trong việc tiếp cận những cơ hội phát triển. Họ cũng là những đối tượng chịu thua thiệt trong phát triển. Sự chênh lệch trong phát triển cũng biểu hiện rõ rệt giữa các địa phương, vùng, miền. Do đó, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội để đạt được sự phát triển bền vững càng trở nên bức xúc không chỉ đối với sự phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội mà còn đối với địa phương, vùng miền trong cả nước.
2 - Công bằng xã hội trong điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường và đổi mới toàn diện các lĩnh vực đời sống xã hội - Những nhận thức mới
Những nhận thức mới về công bằng xã hội hình thành trong thực tiễn đổi mới ở nước ta do có sự tác động của nhiều nhân tố. Đó là các nhân tố kinh tế - xã hội và quản lý.
Khi áp dụng cơ chế khoán trong nông nghiệp (năm 1981) và trong đổi mới (năm 1988) với Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, sau này, ở nông thôn, trong nông dân và các hộ nông dân gọi một cách dung dị là “khoán 100” và “khoán 10”, thì điểm mấu chốt của cơ chế, nói rộng hơn là chính sách khoán trong nông nghiệp, từ khoán sản phẩm đến khoán hộ là chú trọng tới lợi ích cá nhân của người lao động, coi đây là động lực trực tiếp để thực hiện lợi ích xã hội. Việc áp dụng chính sách, cơ chế khoán đã dẫn tới xác lập vai trò của kinh tế hộ (tư nhân, cá thể) nông dân, coi kinh tế hộ gia đình nông dân - xã viên (vì còn gắn với mô hình hợp tác xã) là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn. Do kích thích lợi ích cá nhân, tư nhân cá thể nên kinh tế hợp tác, hợp tác xã phải là điều kiện liên kết tự nguyện của các hộ kinh tế tư nhân cá thể và từ đây, kinh tế gia đình ở nông thôn có vai trò trọng yếu chứ không phải là kinh tế phụ như cách hiểu trước đây. Nông thôn thời đổi mới khởi sắc nhanh chóng bắt đầu từ quan niệm mới này. Như vậy, công bằng xã hội là một phạm trù kinh tế, trước hết phải nhấn mạnh tới lợi ích cá nhân và thụ hưởng lợi ích của từng cá nhân bằng lao động của mình.
Công bằng xã hội có nội dung kinh tế, đồng thời có ý nghĩa xã hội, bởi nó biểu đạt một quan hệ kinh tế - xã hội giữa người và người trong một môi trường bình đẳng.
Đổi mới trước hết là đổi mới kinh tế, đồng thời đổi mới còn diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Đổi mới tạo ra môi trường, hoàn cảnh mới lôi cuốn mọi người, mọi nhà, mọi cơ sở, địa phương, vùng, miền và cả nước tham gia, nó là thời cơ phát triển cho tất cả. Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thay cho kinh tế hiện vật. Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu. Cạnh tranh trên thị trường theo quy luật giá trị, cung cầu, lợi nhuận thay cho bình quân bao cấp. Phân hóa trong phát triển (giàu nghèo), vượt trội trong phát triển được thừa nhận chứ không phải cào bằng như trước đây.
Việc phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu kéo theo sự đa dạng hóa các hình thức phân phối - đó thực chất là dân chủ hóa kinh tế, khuyến khích mọi người, mọi nhà làm giàu hợp pháp bằng lao động chính đáng, có thu nhập chính đáng, miễn là trong hành lang của luật pháp.
Phân định rõ ràng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quyền tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp, doanh nhân với quyền quản lý nhà nước bằng luật pháp, chính sách đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh. Những nhân tố như thế hình thành trong đổi mới đã tác động tới nhận thức mới về công bằng xã hội.
Công bằng trước hết là trong lĩnh vực phân phối lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất. Đó là sự thụ hưởng lợi ích chính đáng bằng kết quả lao động có ích, đóng góp cho xã hội và được xã hội trao lại cho người lao động thông qua trả lương, trả công bằng tiền hay thưởng bằng tiền và hiện vật. Thực hiện công bằng trong phân phối phải qua cơ chế lương, thưởng.
Trong nền kinh tế thị trường thực hiện công bằng xã hội không chỉ trong phân phối lợi ích theo lao động mà còn có những hình thức đa dạng khác. Đó là phân phối theo tài năng, theo mức đóng góp bằng vốn, bằng các nguồn lực được hỗ trợ (những người nhận được hỗ trợ của thân nhân từ nước ngoài gửi về). Công bằng được áp dụng với tất cả mọi người dân nên còn phải tính đến các chính sách đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài khi họ cống hiến, đóng góp tài trí, sức lao động, tiền của vào công cuộc tái thiết đất nước. Theo một lôgic chung, đã đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đa dạng hóa các thành phần kinh tế thì tất yếu cũng phải đa dạng hóa các hình thức phân phối. Đó là sự công bằng xã hội.
Trong những nhận thức mới về công bằng xã hội, cần phải nhấn mạnh rằng, công bằng không phải là chia đều, là cào bằng tất cả như nhau, bất kể năng lực hay kết quả cống hiến là khác nhau giữa mọi người. Công bằng có biểu hiện trực tiếp là không chia đều lợi ích, công bằng xa lạ và đối lập với bình quân, chia đều. Nếu rơi vào bình quân, chia đều thì tự xã hội sẽ làm suy yếu và tự đánh mất động lực phát triển. Nó sẽ làm thiệt hại tới lợi ích của người chăm, người giỏi mà lại tạo ra mảnh đất thuận lợi cho sự ỉ lại vào Nhà nước, ký sinh ăn bám của những người lười biếng và kém cỏi. Đây là nguyên nhân làm cho xã hội trì trệ, phát sinh sức ì, sự thụ động. Vì vậy phải xóa bỏ bình quân, bao cấp khi đi vào kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, do đã chấp nhận cạnh tranh, do tuân thủ quy luật giá trị nên phải thừa nhận sự phân hóa, sự vượt trội. Chính một bộ phận giàu có, vượt mức (bằng lao động chính đáng) sẽ tạo ra lực đẩy, kích thích sự phát triển vươn lên của các cá nhân và cả cộng đồng. Dĩ nhiên, vì định hướng xã hội chủ nghĩa, vì giữ vững bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nên phải có biện pháp điều tiết của Nhà nước (đánh thuế thu nhập cao, thu lại một phần thu nhập của người giàu, lợi nhuận của các doanh nghiệp, doanh nhân, quy định phí dịch vụ cao cấp và các mặt hàng cao cấp mà chỉ các đối tượng giàu có mới có khả năng tiêu dùng, cũng như vậy, miễn hoàn toàn thuế nông nghiệp, trợ giá, trợ cước cho nông thôn, miễn giảm viện phí, học phí cho người nghèo, áp dụng các hình thức cho vay từ các ngân hàng chính sách đối với người nghèo để giúp họ thoát đói, vượt nghèo, đầu tư cho học hành, sản xuất, cho phát triển - đó là những việc làm cần thiết để thực hiện công bằng xã hội, quỹ phúc lợi xã hội nhằm tăng khả năng thực tế để thực hiện công bằng xã hội. Công bằng xã hội còn đòi hỏi phải thực hiện tốt các chính sách xã hội khác như chính sách “đền ơn đáp nghĩa”, chăm lo cho những người có công với cách mạng, những thương binh và gia đình liệt sĩ, những người già yếu không nơi nương tựa, v.v..
Như vậy, điều thực chất sâu xa của công bằng xã hội, gắn liền công bằng với bình đẳng là bảo đảm công bằng và bình đẳng về cơ hội phát triển. Xã hội tạo ra môi trường, hoàn cảnh, thể chế pháp lý, chính sách và cơ chế để tất cả mọi thành viên xã hội, ai ai cũng nhận được cơ hội để phát triển, không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào, một rào cản nào. Với công bằng xã hội, cơ hội phát triển là ngang nhau, điều kiện khách quan mà xã hội tạo ra là dành cho tất cả mọi người, ai ai cũng có thể tiếp cận được cơ hội phát triển. Còn trong thực tế, kết quả phát triển sẽ không giống nhau, không bằng nhau ở mọi người, do nỗ lực khác nhau, trình độ, khả năng khác nhau. Cũng như vậy, bình đẳng về cơ hội phát triển là bình đẳng về quyền tự do, tự chủ, vị thế chính trị - xã hội, về cơ hội hành động... chứ không thể bình đẳng về trí tuệ, năng lực, sức khỏe, hoàn cảnh và điều kiện gia đình.
Việc xóa bỏ “ngăn sông cấm chợ”, xóa bỏ quan niệm ứng xử sai lầm, định kiến trong đánh giá năng lực, trình độ, phẩm chất, trong phân phối các lợi ích được thụ hưởng... là một bước tiến lớn hướng tới công bằng.
Cũng không nên quên rằng, công bằng mang bản chất xã hội nhưng công bằng không chỉ thể hiện trong các vấn đề xã hội mà có nội dung toàn diện, cả công bằng trong kinh tế, trong chính trị, trong văn hóa.
Nước ta là một nước đa tộc người, đa tôn giáo, đa văn hóa lại càng phải chú ý tới nội dung toàn diện các công bằng. Do bảo đảm công bằng trong kinh tế nên ngay đảng viên cũng được làm kinh tế tư nhân, mọi công dân được phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Do công bằng trong cơ hội phát triển về giáo dục, nên con em của mọi người dân đều có quyền học tập, đi du học nước ngoài, miễn là có điều kiện trang trải tài chính, có quyền chọn nơi làm việc, chỗ làm việc, không nhất thiết phải làm việc trong khu vực nhà nước. Do công bằng về chính trị nên mọi công dân đều có quyền làm chủ, tự do trong bầu cử, lựa chọn người mà mình tín nhiệm để ủy quyền, bảo đảm bình đẳng giữa dân tộc kinh đa số với các dân tộc thiểu số, kể cả bình đẳng về giới.
Nói đến công bằng xã hội còn phải chú trọng công bằng trong phát triển khu vực, vùng, miền. Hiện nay, chỉ có một số ít các thành phố và các tỉnh có năng lực tăng trưởng cao, có đóng góp cho ngân sách trung ương, còn lại một phần lớn các địa phương ở trong tình trạng thu không đủ chi và phải trang trải bằng nguồn kinh phí của Nhà nước. Cần phải tính toán lại việc phân bổ nguồn lực và tạo điều kiện cho các vùng, miền phát triển cân đối, hài hòa. Không nên kéo dài vô hạn độ tình trạng bao cấp phát triển của Nhà nước cho tất cả các địa phương, phấn đấu để các địa phương có đủ sức, đủ lực tự phát triển, và có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước nhằm điều tiết phân phối lại cho toàn xã hội. Có quy chế và chính sách đối với các tỉnh.
3 - Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, chú trọng giáo dục nhận thức xã hội, sửa đổi kịp thời cơ chế, chính sách
Cần phải giải quyết đồng bộ các giải pháp, biện pháp để bảo đảm cho công cuộc đổi mới tiếp tục đi vào chiều sâu, các mục tiêu của đổi mới được thực hiện có kết quả, đưa đất nước sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực theo đúng nguyên lý về công bằng xã hội, phát triển bền vững.
Đây cũng chính là kiến nghị và đề xuất trong việc tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, bổ sung và phát triển Cương lĩnh trong thời kỳ mới. Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững ở nước ta, đòi hỏi phải tập trung đẩy mạnh nghiên cứu lý luận gắn liền với tổng kết thực tiễn.
Tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội trong phát triển, giữa yêu cầu xã hội của phát triển kinh tế với nội dung kinh tế trong phát triển xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội trong phát triển. Đây là mối quan hệ nền tảng mà việc giải quyết nó lại chịu tác động của thể chế chính trị, của thể chế nhà nước. Phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế chính là tạo ra tác nhân kinh tế thúc đẩy tăng trưởng, tiến bộ và phát triển, trong đó có lực đẩy rất quan trọng là dân chủ hóa. Tuy nhiên, sự phát triển có lành mạnh và bền vững hay không lại tùy thuộc ở hiệu quả và chất lượng, thực hiện công bằng xã hội trong từng bước đi, trong từng chính sách, đối với các đối tượng xã hội.
Cần có chính sách và cơ chế để bảo đảm công bằng, hợp lý trong việc thụ hưởng lợi ích, do đó phải chú trọng giải quyết vấn đề lao động, việc làm, tiền lương, đời sống cho người lao động, giảm thiểu và khắc phục tình trạng thua thiệt trong phát triển, nhất là đối với các tầng lớp cơ bản trong xã hội, các nhóm nghèo và yếu thế, các vùng, các địa phương có trình độ phát triển thấp. Cần nghiên cứu mặt tác động trở lại của công bằng với tăng trưởng, công bằng xã hội với ổn định chính trị, với đoàn kết và đồng thuận, từ đó thấy rõ tác động của xã hội và chính trị tới tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Sâu xa hơn, đó là văn hóa trong phát triển, là quan hệ giữa phát triển từng lĩnh vực với phát triển tổng thể, phát triển cộng đồng, trong đó có vấn đề môi trường và vai trò của môi trường trong phát triển (cả môi trường tự nhiên - sinh thái và môi trường xã hội - nhân văn).
Tăng cường giáo dục nhận thức trong xã hội về khắc phục những di tồn của bình quân, chia đều. Đây là một lực cản tâm lý, vô hình nhưng rất trở ngại cho nhận thức mới về công bằng. Thực hiện công bằng tức là không chia đều, là chú trọng tính hợp lý trong thụ hưởng lợi ích là rất khó khăn đối với nước ta do phân công lao động chưa triệt để, do định mức lao động chưa rõ ràng, chính xác, do cả quản lý yếu kém. Phải đặc biệt chú trọng tạo môi trường kinh tế - xã hội, chính trị - pháp lý, tâm lý - đạo đức để thực hiện công bằng, bình đẳng về cơ hội phát triển cho tất cả mọi người.
Việc sửa đổi chính sách, cơ chế là một khâu cần đột phá để thực hiện công bằng xã hội, đặc biệt là chính sách lao động, chính sách tiền lương, chính sách trọng dụng, ưu đãi hiền tài, chính sách với người có công và bảo trợ xã hội cho người nghèo, nhóm nghèo, các đối tượng yếu thế.
Giải quyết các vấn đề nêu trên đòi hỏi phải nâng cao năng lực hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện chính sách, đánh giá chính sách với sự tham gia của người dân. Đó là những vấn đề đặt ra, cần được phân tích khoa học, cần đánh giá một cách có căn cứ lý luận - thực tiễn để bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trước yêu cầu mới./.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng  (04/01/2010)
Khai mạc Festival Hoa Ðà Lạt 2010  (03/01/2010)
Những dự án tái thiết không hiệu quả của Mỹ ở I-rắc  (03/01/2010)
Nghị định số 113/2009/NÐ-CP về giám sát và đánh giá đầu tư  (03/01/2010)
- Tỉnh Yên Bái nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân: Từ nghị quyết đến thực tiễn
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương
- Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên