Vẫn cách nhìn xưa cũ!

Tạ Quang Đạo Trường Đại học Chính trị - Bộ Quốc phòng
19:46, ngày 12-10-2012
TCCSĐT - Dựa trên những thông tin sai lệch, thiếu khách quan, vừa qua Hạ viện Mỹ đã biểu quyết thông qua cái gọi là “Dự luật nhân quyền Việt Nam 2012” (H.R.1410) và “Nghị quyết H.Res.484” liên quan tới vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Việc thông qua những văn bản này một lần nữa đã thể hiện cách nhìn xưa cũ cũng như thái độ mang nặng định kiến của số ít giới chức Mỹ về tình hình thực thi quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
Không khác nhiều so với các dự luật nhân quyền mà Mỹ đã thông qua trong những năm trước, Dự luật nhân quyền Việt Nam 2012 và Nghị quyết H.Res.484 đã nhìn nhận một cách thiếu khách quan, không chính xác về thực trạng tình hình nhân quyền tại Việt Nam, từ đó yêu cầu giới hạn các khoản hỗ trợ trừ phi Chính phủ Việt Nam có “tiến bộ đáng kể” trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tự do ngôn luận! Xét về bản chất, đây là hành động can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của nước khác trên danh nghĩa của cái gọi là “nhân quyền”.

Công bằng mà nói, Dự luật H.R.1410 của Hạ viện Mỹ đã ít nhiều thừa nhận những tiến bộ nhất định về tình hình thực thi nhân quyền tại Việt Nam trong thời gian qua. Song đáng tiếc đó không phải là nội dung cơ bản của dự luật này. Bám vào những thông tin lỗi thời, lạc hậu và dựa trên cách nhìn xưa cũ, H.R.1410 tiếp tục xuyên tạc việc thực thi quyền con người ở Việt Nam, thổi phồng những cái mà họ cho là “vi phạm nhân quyền”. Như Tạp chí Quốc phòng toàn dân đã trích lời của một Hạ nghị sĩ Mỹ - Ông E. Pha-lê-ô-ma-va-ê-ga cho rằng, H.R.1410 là “thiển cận”, bởi nó chỉ dựa trên những dữ liệu “cũ rích”, có từ cách đây 10 - 15 năm, được nhắc đi nhắc lại bởi những người chưa bao giờ đặt chân tới Việt Nam và một nhóm người Việt lưu vong tại Mỹ luôn có tư tưởng thù địch với Việt Nam.

Cần nhấn mạnh là bên cạnh những giá trị, những chuẩn mực phổ quát chung thì khái niệm nhân quyền bao giờ cũng gắn với tính đặc thù về lịch sử, bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Và vì thế, nhân quyền không thể tách rời chủ quyền quốc gia, quyền tự quyết dân tộc. Với cách tiếp cận đó, trong thời gian qua cộng đồng quốc tế đã và đang đánh giá cao những tiến bộ mang tính đột phá của Việt Nam trong việc thực hiện các quyền con người.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định quan điểm: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” và “Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Không chỉ dừng lại ở các văn bản, nghị quyết, quan điểm này đã thực sự đi vào cuộc sống với hàng loạt những chính sách, những chương trình xã hội cụ thể, có ý nghĩa to lớn trong chăm lo, cải thiện và phát triển đời sống nhân dân. Trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn bởi tác động của cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới nhưng trong năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012, Việt Nam vẫn ưu tiên bố trí tăng thêm nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia. Năm 2011, ngân sách nhà nước chi cho bảo đảm an sinh xã hội đã tăng 20% so với năm 2010; trong đó hỗ trợ mua Bảo hiểm Y tế cho hộ nghèo và cận nghèo 3.500 tỷ đồng (14 triệu người nghèo được cấp thẻ), dư nợ tín dụng cho vay hộ nghèo đạt 37,6 ngàn tỷ đồng, tạo được 1,54 triệu việc làm mới … Tính riêng 5 tháng đầu năm 2012, cả nước đã tạo việc làm cho 612.138 người; nhiều chính sách an sinh xã hội tiếp tục được thực hiện có hiệu quả.

Những nỗ lực nói trên của chúng ta đã được thế giới ghi nhận và đánh giá rất cao. Tại kỳ họp lần thứ 17 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (tháng 6-2011), trong báo cáo về chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam cuối năm 2010, bà M. Ca-mô-ra (chuyên gia độc lập về nhân quyền và chống đói nghèo) đã nhấn mạnh và đề cao những bước tiến ấn tượng của Việt Nam trong công tác xóa đói giảm nghèo: “Việt Nam đã bảo đảm tốt hơn các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho người dân”. Cuối năm 2011, sau chuyến thăm Việt Nam kéo dài 10 ngày (từ ngày 25-11 đến ngày 5-12-2011), ông A-nan Grâu-vơ (Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc) đã phát biểu hoan nghênh những thành tựu trong sự nghiệp xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm thực hiện công bằng xã hội mà Việt Nam đạt được.

Rõ ràng, những tiếng nói trên đây hoàn toàn khác với những gì mà Dự luật H.R.1410 nêu ra. Nguyên nhân chính bởi đó là lời nhận xét chân thực, khách quan, là ý kiến của những người đã “đến tận nơi, nhìn tận mắt, nghe tận tai” những gì đã diễn ra ở Việt Nam; trong khi đó Dự luật H.R.1410 không những dựa trên những thông tin sai lệch, thiếu khách quan, mà còn xuất phát từ cách nhìn xưa cũ, sự định kiến và sở thích áp đặt người khác của một số vị dân biểu Mỹ.

Tự cho mình cái quyền phán xét nước khác nhưng có lẽ Hạ viện Mỹ đang quên đi (hoặc cố tình quên) bức tranh không mấy tốt đẹp về tình hình nhân quyền ở ngay chính đất nước mình. Cộng đồng người Hồi giáo và dư luận quốc tế vẫn chưa hết phẫn nộ với sự kiện lính Mỹ đốt kinh Cô-ran và xúc phạm thi thể các chiến binh Ta-li-ban ở Áp-ga-ni-xtan (đái vào thi thể và chụp ảnh làm dáng với thi thể của các chiến binh). Đầu năm nay, trong phong trào “Chiếm phố Uôn”, cảnh sát Mỹ đã dùng hơi cay và súng điện đàn áp những người biểu tình hòa bình và bắt giữ hơn 400 người. Trước đó, gần 1.000 người bị bắt giữ trong 2 tuần đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình này vào tháng 9-2011. Và mới đây, một “sự thật nhân quyền” ở Mỹ cũng đã bị báo giới nước này phanh phui: Thay vì được an táng bình thường thì phần thi thể của nhiều nạn nhân vụ khủng bố 11-9-2001 lại bị tiêu hủy ở một bãi rác! Phải chăng đây chính là cái gọi là nhân quyền của Mỹ?

Trở lại với Dự luật nhân quyền Việt Nam 2012 và Nghị quyết H.Res.484 liên quan tới vấn đề nhân quyền tại Việt Nam mà Hạ viện Mỹ vừa thông qua. Có thể thấy, tự ý đưa ra những dự luật đánh giá về tình hình nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có chủ quyền, mượn danh nghĩa hỗ trợ kinh tế để tạo áp lực về chính trị … là những hành động đi ngược lại xu thế hợp tác quốc tế cũng như nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước Việt Nam và Mỹ. Vì vậy, cũng giống như số phận của hàng loạt những dự luật tương tự trước đây, chính những thông tin sai lệch, lối tư duy định kiến và nhất là cách nhìn xưa cũ của những người soạn thảo sẽ làm cho Dự luật nhân quyền Việt Nam 2012 và Nghị quyết H.Res.484 nhanh chóng bị dư luận lãng quên./.