Tiếp cận nông thôn, nông dân Việt Nam từ các hình thức liên kết, các mạng lưới xã hội và vốn xã hội là cách tiếp cận mới, khả dĩ, có thể phát hiện và khơi thông các nguồn lực nông thôn vốn tiềm ẩn thành nguồn lực cho phát triển trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

1 - Khái niệm mạng lưới xã hội và vốn xã hội

Xã hội loài người có nhiều dạng liên kết, tập hợp con người thành các loại cộng đồng khác nhau, như liên kết theo huyết thống (gia đình, dòng họ), liên kết theo cư trú (làng xã, quốc gia...) và liên kết theo lợi ích (giai cấp, nghiệp đoàn...). Tuy nhiên, hơn tất cả các dạng liên kết hiện tồn, thì gia đình (nhà) và làng xã là sự kết hợp tập trung nhất các mối quan hệ huyết thống, cư trú và lợi ích. Trong đó gia đình, gia tộc và mở rộng ra dòng họ là một dạng liên kết mang tính sinh học, huyết thống, liên kết trên cơ sở cùng cư trú và lợi ích, còn làng xã là dạng liên kết dựa trên cơ sở cùng cư trú và lợi ích. Do vậy, gia đình, dòng họ và làng xã là ba dạng liên kết đặc trưng cho xã hội nông nghiệp, nông thôn, hình thành từ lâu đời ngay trong lòng xã hội nguyên thủy, tồn tại trong các hình thái xã hội có giai cấp tiền công nghiệp và chừng mực nào đó trong xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp.

Từ ba dạng liên kết, ba hình thức tổ chức xã hội nông thôn cơ bản nêu trên tạo nên các mạng lưới xã hội (social network) khá đa dạng của nông thôn. Mạng lưới xã hội được hiểu như là mối liên hệ giữa các cá nhân, các nhóm xã hội khác nhau trong một thực thể xã hội nhất định, dù đó là chính thống hay phi chính thống, thường xuyên hay bất thường. Các mạng lưới xã hội "chuyên chở" các mối quan hệ qua lại về kinh tế, xã hội và văn hóa giữa các cá nhân hay nhóm xã hội, bảo đảm tính liên thông, cân bằng, ổn định, gắn kết của một thực thể xã hội. Mạng lưới xã hội này thường liên quan tới tính xã hội, gắn kết xã hội và vốn xã hội.

Thể chế xã hội có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành các mạng xã hội. Trong một thực thể xã hội nhất định, luôn luôn có sự hiện diện của hai hoạt động mạng lưới xã hội. Một loại mang tính phi chính thống (phi quan phương). Thí dụ trong nông thôn Việt Nam cổ truyền các mạng lưới liên quan tới việc mua bán, tương trợ về nông sản, liên quan tới hoạt động thủy nông của một làng hay liên làng, các quan hệ biếu xén, quà cáp, các mạng lưới liên quan tới nghi lễ, hội hè, tang lễ, cưới xin, mạng lưới liên quan đến các nhóm người đồng niên, đồng khóa... Một loại mạng lưới xã hội khác mang tính chính thống (quan phương), như quan hệ quyền lực (chính quyền, đảng phái), các tổ chức đoàn thể, hội đoàn... Hai hoạt động mạng lưới xã hội mang tính chính thống và phi chính thống này thường xuyên xen trộn, hòa quyện, tương tác, thậm chí xung đột nhau.

Các thực thể xã hội và cùng với nó là các mạng lưới xã hội tạo nên cái gọi là vốn xã hội (Capital Social). Theo Pi-e Buốc-đi-ơ, vốn xã hội được xây dựng và tái hoạt động với sự đóng góp của 3 dạng: vốn kinh tế có được từ thu nhập, nắm giữ và lưu thông kinh tế, tài chính; vốn văn hóa với việc xây dựng và tái tạo các giá trị, các biểu trưng, các di sản và vốn xã hội là toàn bộ các nguồn, các tiềm năng liên quan đến các quan hệ bền vững của một thực thể xã hội, tạo nên niềm tin, sự cảm thông, sự gắn kết, hợp tác và những hành động mang tính tập thể.

Vốn xã hội này nằm ngoài tài sản, vốn tư bản, nhưng nằm trong các quan hệ của con người, của các chủ tài sản, nó ẩn giấu trong các mối quan hệ giữa các chủ tài sản. Nó thể hiện ra ngoài bằng: 1) niềm tin, sự tin cậy lẫn nhau; 2) sự tương hỗ, có đi có lại, 3) các quy tắc, các hành vi mẫu mực, các chế tài; 4) sự kết hợp với nhau thành mạng lưới.

Thí dụ, hình thức chơi hụi ở nông thôn (bằng thóc hay tiền), các hình thức mừng tiền trong cưới xin, tiền phúng viếng trong tang lễ, các quan hệ giữa các hộ nông dân của một làng hay liên làng trong việc phân chia nguồn nước... đều là các mối quan hệ của các mạng lưới xã hội đưa lại lợi ích xã hội, kinh tế, tạo ra vốn xã hội cho phát triển.

Mạng lưới xã hội và vốn xã hội là hai khái niệm khác nhau, nhưng chúng lại liên hệ chặt chẽ với nhau. Trên một phương diện nào đó, mạng lưới xã hội góp phần tạo nên vốn xã hội và ngược lại, vốn xã hội góp phần củng cố vững chắc hơn các mạng lưới xã hội.

Mạng lưới xã hội và vốn xã hội là một thực thể khách quan, là di sản của truyền thống, tuy hình thành trong trường kỳ lịch sử, nhưng nó luôn biến đổi, cập nhật với sự biến đổi xã hội, được con người nhận thức và sử dụng nhằm ổn định và phát triển xã hội. Thí dụ, vào thế kỷ XV, thời Hồng Đức, cùng với việc biên soạn "Luật Hồng Đức", lúc đó trước việc các làng xã soạn thảo hương ước thì vua Lê Thanh Tông ra chiếu chỉ cấm các làng xã làm việc này, với lý do: Nhà nước đã có luật, làng xã không cần hương ước nữa. Nhưng ngay sau đó, nhận ra một thực tế là hương ước chính là một dạng của "vốn xã hội" cần thiết hỗ trợ cho luật Nhà nước, nên nhà vua anh minh ấy đã rút lại lệnh cũ và ban hành lệnh chỉ cho phép các làng xã soạn thảo hương ước và nó đã tồn tại suốt 500 năm qua với tư cách là công cụ quản lý nông thôn hữu hiệu.

Ba dạng liên kết tạo ra các mạng lưới và vốn xã hội trên không chỉ sản xuất và tái sản xuất ra con người, các quan hệ xã hội, các nguồn lực phát triển, mà còn là môi trường khá an toàn của người nông dân trước những biến động xã hội. Do vậy, gia đình, dòng họ, làng xã và cùng với đó là các mạng lưới xã hội và vốn xã hội chính là những "rường cột", "linh hồn" của xã hội nông thôn và nông dân Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa, ai nhận thức được nó, tác động để cái "rường cột", "linh hồn" đó biến đổi theo chiều hướng tích cực thì sẽ làm chủ được xã hội nông thôn.

2 - Sự biến đổi của các mạng lưới xã hội và vốn xã hội ở nông thôn

Các mạng lưới xã hội và vốn xã hội luôn biến đổi dưới tác động trực tiếp của các thể chế xã hội. Xã hội Việt Nam, trong đó có xã hội nông thôn, suốt một thế kỷ qua, nhất là từ nửa cuối thế kỷ XX, dưới tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, đã và đang diễn ra sự biến đổi to lớn, một sự biến đổi kép, trong đó có các dạng tập hợp, tổ chức, các hình thức liên kết, mạng lưới xã hội và vốn xã hội. Vấn đề đặt ra là nó đã và đang thay đổi như thế nào? Và làm sao phát huy được các vốn xã hội, nguồn lực xã hội đó trong phát triển nông thôn Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa?

Từ thập kỷ 50 đến thập kỷ 80, nông thôn Việt Nam, do tác động của chiến tranh, trong đó chủ yếu là do các chính sách kinh tế, xã hội của chúng ta, nhất là chính sách với nông thôn, nông nghiệp, khiến các cấu trúc xã hội (gia đình, làng xã) bị đảo lộn. Thời kỳ này, ở miền Bắc, hoạt động tập thể hóa nông nghiệp, mà về mặt cơ cấu, các "hợp tác xã nông nghiệp" bậc thấp hay bậc cao đã bao trùm lên mọi mặt đời sống xã hội nông thôn, các mạng lưới xã hội và các nguồn vốn, nguồn lực xã hội truyền thống bị triệt tiêu, khiến cho nông thôn khủng khoảng về kinh tế, trì trệ về xã hội và điêu tàn về văn hóa. Bài học này cần phải được nhận thức một cách rõ ràng, nghiêm khắc, để hiện tại và tương lai chúng ta không bao giờ tái phạm nữa.

Nông thôn Việt Nam thực sự thay đổi tích cực từ khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới (1986), mà cũng kỳ diệu thay đó chính là từ sự thay đổi liên quan tới gia đình và làng xã. Cái nút bấm quan trọng nhất trong sự đổi mới nông thôn là chính sách khoán hộ, lấy hộ nông dân làm chủ thể kinh tế. Từ hộ gia đình được giải phóng và tái xác lập, thì làng xã, cái môi trường xã hội không thể thiếu của hộ gia đình, cũng được hồi sinh từ sự sụp đổ của chế độ "tập thể hóa nông nghiệp". Và điều kỳ diệu đã đến, khi mà các thiết chế gia đình, làng xã được hồi phục, các mạng lưới xã hội được tái xác lập, các nguồn lực xã hội, vốn xã hội được giải phóng. Hệ quả là chủ trương đó không những thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp mà còn làm phục hưng nền văn hóa truyền thống đang trên đường mai một. Bài học "hiệu quả kép" của một chính sách kinh tế của thời kỳ mở đầu đổi mới đến nay vẫn nóng hổi tính thời sự.

Sự thay đổi ở nông thôn từ sau đổi mới, tuy mang tính đột phá, cách mạng so với "đêm trước đổi mới", nhưng nó vẫn có cái gì đó mang tính "trở về cái nó vốn có", tức là trở về mô hình nông nghiệp tiểu nông với các mối liên hệ làng xã, gia đình và dòng tộc. Cho tới tận ngày nay, nông nghiệp Việt Nam cơ bản vẫn là nông nghiệp tiểu nông, tuy tính sản xuất hàng hóa đã xuất hiện và phát triển ở một số địa phương, một số lĩnh vực. Làng xã cũng có nhiều thay đổi tích cực, nhưng nó vẫn là làng xã thời kỳ tiền công nghiệp. Theo chúng tôi, hiện tại và tương lai đến năm 2020, khi mà mục tiêu Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển, thì các thực thể xã hội: gia đình, dòng họ, làng xã và cùng với nó là các mạng lưới xã hội, các vốn và nguồn lực xã hội vẫn còn đóng vai trò tích cực.

Cùng với sự trở lại của hộ nông dân, dù vẫn là hộ nông dân tiểu nông, cùng với trở lại của làng xã, dù đó cơ bản vẫn là làng xã cổ truyền, nhưng chừng đó thôi đã giúp cho việc hồi phục và phát triển của các mạng lưới xã hội dưới mọi hình thức. Theo khảo sát của chúng tôi, ở làng Trang Liệt thuộc huyện Từ Sơn (Bắc Ninh) đã hình thành và hoạt động trên 20 hình thức hội đoàn phi quan phương. Còn theo thông tin của PGS, TS Mai Văn Hai (Viện Xã hội học), ở làng Tam Sơn, huyện Từ Sơn có tới 58 tổ chức hội đoàn (cả quan phương và phi quan phương). Các mối quan hệ đa chiều ấy chắc chắn sẽ tạo ra các nguồn vốn xã hội, góp phần thúc đẩy xã hội nông thôn. Như vậy, so với xã hội cổ truyền, các tổ chức xã hội mới và cùng với nó là mạng lưới xã hội lại phong phú hơn, tuy có thứ đã mất đi (như tổ chức giáp).

Chúng tôi không đồng tình với một số nhà nghiên cứu "cấp tiến" chỉ muốn "tống tiễn" cái gia đình tiểu nông và làng xã cổ truyền đi càng nhanh càng tốt. Ai cũng hiểu được tính tiêu cực của kiểu gia đình tiểu nông và làng xã cổ truyền này, nhưng cái cơ cấu gia đình, dòng tộc và làng xã ấy vẫn hằng ngày dệt nên những mạng lưới xã hội, tạo ra vốn và nguồn lực xã hội cho phát triển nông thôn.

3 - Một số vấn đề đặt ra liên quan tới mạng lưới xã hội và vốn xã hội ở nông thôn hiện nay

Vấn đề hiện nay là đến năm 2020, trong khung cảnh xã hội Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì cấu trúc xã hội nông thôn và cùng với nó là các mạng lưới xã hội và vốn xã hội tiềm tàng, cần phải được tiếp tục giải phóng và phát huy như thế nào?

Trước hết, do Luật Đất đai, do sự phát triển của nền công nghiệp và đô thị, gia đình tiểu nông hiện nay sẽ rất khó trở thành chủ trang trại sản xuất nông phẩm hàng hóa. Nhớ lại, trong thế kỷ XVI khi cách mạng công nghiệp bắt đầu ở nông thôn nước Anh, đất của nông dân bị tập trung vào tay các chủ trang trại - điều kiện để nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, nông dân mất đất ra đô thị tham gia đội ngũ công nhân. Với chúng ta, cơ hội đó không còn nữa. Do vậy, bên cạnh việc lập các trang trại ở những nơi có điều kiện, như Nam Bộ hay miền núi để sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo mô hình trang trại ở phương Tây, thì quá trình hiện đại hóa nông nghiệp theo mô hình trang trại còn gặp khó khăn, nhất là ở nông thôn Bắc Bộ. Theo chúng tôi, một mặt, làm sao biến các hộ tiểu nông tự cấp tự túc thành hộ nông dân sản xuất hàng hóa; mặt khác, có chính sách đất đai hợp lý, tạo điều kiện cho những hộ kinh doanh nông nghiệp có năng lực mở rộng quy mô sản xuất thích hợp, bên cạnh đó phát triển ngành nghề thủ công và đơn vị ở nông thôn. Do vậy, từ nay đến năm 2020, hộ nông dân kinh doanh nông nghiệp theo hướng hàng hóa (hộ tiểu nông hay hộ trang trại) vẫn là cấu trúc xã hội cơ bản, vẫn là nhân vật của nông thôn. Bởi vì suy cho cùng với đối tượng sinh học là cây trồng, thì cơ cấu xã hội mang tính sinh học là gia đình vẫn phù hợp hơn cả.

Muốn làm được điều này, Nhà nước cần có hàng loạt chính sách, như chính sách đất đai, quy hoạch sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ vốn và kỹ thuật..., trong đó vấn đề ruộng đất với nông dân vẫn là nóng bỏng và mấu chốt nhất. Từ đây sẽ tạo ra các mạng lưới xã hội liên quan tới hộ gia đình và đó cũng là vốn xã hội tạo ra nguồn lực phát triển nông thôn.

Thứ hai, dòng họ và làng xã, cùng với gia đình vẫn là những hằng số của xã hội nông thôn Việt Nam trong xã hội cổ truyền và chừng nào cả trong xã hội hiện đại. Bởi vì suy cho cùng, trong khung cảnh xã hội nông thôn hiện tại và tương lai gần, gia đình khó tồn tại và phát huy được tác dụng của mình nếu thiếu môi trường dòng tộc và làng xã.

Liên kết dòng tộc và tâm thức "một giọt máu đào hơn ao nước lã" cứ nghĩ chỉ có giá trị trong xã hội tiểu nông và làng xã khép kín, mà chủ yếu là các quan hệ xã hội, nhưng trong môi trường kinh tế thị trường, sự liên kết và tâm thức này lại nổi lên một cách mạnh mẽ hơn cả về phương diện xã hội, văn hóa và kinh tế nữa. Dòng họ, huyết thống, một mặt, tạo nên sự cố kết, hỗ trợ cả về vật chất, tinh thần, bảo tồn truyền thống dòng họ, xây dựng nhân cách con người; mặt khác, nhất là khi sự đối trọng kiểu sống sao cho êm ấm "trong họ ngoài làng" có nguy cơ bị phá vỡ, thì dòng họ cũng bộ lộ rõ hơn nhiều mặt hạn chế, như tạo nên sự cục bộ dòng họ, bao che kiểu "một người làm quan cả họ được nhờ", kèn cựa, ganh đua kiểu "chi bộ họ ta", "ủy ban họ ta", tạo nên sự chia rẽ ở nông thôn.

Thứ ba, làng và tâm thức cộng đồng làng, tuy đã có nhiều thay đổi so với xã hội cổ truyền, nhưng theo chúng tôi, nó vẫn còn có vai trò nhất định trong đời sống nông thôn hiện tại và lương lai. Ai đó những tưởng làng xã đã bị "khai tử" vào thời tập thể hóa nông nghiệp hay gần đây chỉ mong làng xã với các mặt trái của nó biến mất càng nhanh càng tốt, thì thực tế cho thấy cái thời điểm đó còn khá xa vời. Chúng tôi đã có dịp đi khảo sát nông thôn Nhật Bản ở Phu-cô-ơ-ca, tại các làng hay các điểm dân cư, nơi sinh sống của các hộ nông dân canh tác nông nghiệp theo hướng hàng hóa ở trình độ rất cao, quan hệ làng xã, cộng đồng làng xã trên các phương diện kinh tế, xã hội và văn hóa vẫn còn rất mạnh mẽ.

Cộng đồng làng xã, về phương diện kinh tế - xã hội chính là cái "đối trọng" với dòng họ, bảo đảm sự liên kết huyết thống không vượt trội phá vỡ quan hệ láng giềng, bảo đảm quan hệ thăng bằng theo kiểu "trong họ ngoài làng", giảm thiểu sự xung đột quá mức ở nông thôn. Với các gia đình trong xã hội phong kiến - thuộc địa xưa kia cũng như trong xã hội ngày nay, làng xã còn có vai trò như "chiếc áo giáp" giảm thiểu những "va đập" kinh tế, xã hội, khiến người nông dân, nhất là người nông dân các dân tộc thiểu số bị thua thiệt trong cơn lốc của cơ chế thị trường. Đấy là chưa kể vai trò không nhỏ của làng xã trên các phương diện làm phong phú, thăng bằng đời sống tinh thần, tâm linh và văn hóa, mà thực tế đời sống nông thôn mấy thập kỷ qua đã thể hiện rõ. Vấn đề làm sao phải năng động hóa mối quan hệ làng xã, coi đó như là môi trường để phát huy các nguồn lực xã hội phục vụ cho phát triển.

Trong cải cách hành chính hiện nay, tránh việc hành chính hóa cơ cấu làng, thôn, chưa nên coi nó là đơn vị hành chính cơ sở, mà nên coi nó là đơn vị "xã hội tự quản", như nó vốn là vậy suốt mấy nghìn năm nay.

Không nên chính trị hóa, quan phương hóa các mạng lưới xã hội vốn rất phong phú, đa chiều ở làng xã, khiến mạng lưới xã hội ngày càng mang tính một chiều, áp đặt từ trên xuống. Điều này vừa tác hại với người nông dân, vừa làm mất đi tính hiệu quả của mạng lưới quản lý nhà nước. Các mạng lưới xã hội vừa mang tính truyền thống, phi quan phương, vừa mang tính chính thống, quan phương, thể hiện tính liên kết kinh tế thông qua vay vốn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, phân phối sản phẩm, bảo hiểm, trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất, quản lý và điều phối hệ thống thủy nông..., liên kết và hỗ trợ xã hội trên các phương diện hôn nhân và gia đình, khuyến học, xây dựng và sửa sang nhà cửa..., đặc biệt các mối liên kết về đời sống tinh thần, tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng, phong tục và lễ hội. Các mối quan hệ xã hội này đã được hiện thực hóa một phần trong các hương ước, luật tục xưa và quy ước buôn làng mới ngày nay. Đấy là chưa kể các mạng lưới xã hội mang tính chính thống, quan phương liên quan với các mặt của đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của nông thôn hiện nay. Có thể hình dung một mạng lưới xã hội vô cùng phong phú, phức tạp đang dệt nên các quan hệ nông thôn hiện tại. Vấn đề làm sao để thôn làng, thông qua việc vận hành và giải quyết các mối quan hệ ấy, thực sự là không gian sinh tồn của người nông dân, vì người nông dân, cho người nông dân, là chủ thể của mọi thực thể kinh tế, xã hội, văn hóa. Làm tốt được điều này, sẽ khởi động lại tính chủ động sáng tạo của người dân, mà lâu nay họ đã trở nên thụ động và ỷ lại vào Nhà nước.

Gia đình, dòng họ và làng xã là cơ cấu xã hội cơ bản của nông thôn, thể hiện tập trung nhất sự liên kết mang tính huyết thống, cư trú và lợi ích, cùng với nó là các mạng lưới xã hội chuyển tải các lợi ích về kinh tế, xã hội và văn hóa giữa những người nông dân, từ đây, tạo nên các vốn xã hội không thể thiếu cho việc phát triển nông thôn trong xã hội cổ truyền cũng như xã hội hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Vấn đề là làm sao chúng ta nhận thức rõ tính tất yếu cũng như tính hai mặt của các cơ cấu xã hội, mạng lưới xã hội và nguồn lực này, làm năng động hóa chúng phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông thôn hiện nay./.