Tăng cường kiểm soát quyền lực trong quá trình thực hiện các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh hiện nay
14:01, ngày 16-08-2023
TCCS - Quyền lực luôn có nguy cơ bị tha hóa, do vậy, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ có vai trò rất quan trọng, được Đảng ta đặc biệt chú trọng. Thời gian qua, việc thực hiện các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh bước đầu tạo ra hiệu quả rõ nét, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy, khẳng định năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Yêu cầu đặt ra hiện nay là cần đánh giá một cách tổng thể, toàn diện kết quả, hạn chế của các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh, đồng thời kiểm soát quyền lực trong quá trình thực hiện.
Một số vấn đề về kiểm soát quyền lực trong quá trình thực hiện các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh
Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là chủ trương lớn của Đảng. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị các cấp đã có nhiều đổi mới; trong đó, việc thực hiện các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng.
Về các mô hình tổ chức mới, đã thực hiện thí điểm hợp nhất: 1- Cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy với cơ quan chuyên môn (hoặc tham mưu) thuộc ủy ban nhân dân (UBND) có chức năng, nhiệm vụ tương đồng cấp tỉnh, cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện (ban tổ chức cấp ủy với cơ quan nội vụ; cơ quan ủy ban kiểm tra với thanh tra; văn phòng huyện ủy với văn phòng hội đồng nhân dân (HĐND) và UBND cấp huyện); 2- Ban tuyên giáo cấp ủy và trung tâm chính trị cùng cấp; 3- Cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc chung khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp; 4- Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; 5- Văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội, văn phòng HĐND và văn phòng UBND cấp tỉnh hợp nhất thành một văn phòng tham mưu, giúp việc chung; 6- Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh và Đảng bộ khối doanh nghiệp tỉnh thành Đảng bộ khối các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh.
Về kiêm nhiệm chức danh, đã thực hiện thí điểm: 1- Kiêm nhiệm chức danh người đứng đầu cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy và cơ quan chuyên môn của chính quyền có chức năng, nhiệm vụ tương đồng cấp tỉnh, cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện (trưởng ban tổ chức cấp ủy đồng thời là người đứng đầu cơ quan nội vụ; chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đồng thời là chánh thanh tra; chánh văn phòng cấp ủy đồng thời là chánh văn phòng HĐND và UBND cấp huyện); 2- Trưởng ban dân vận cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở những nơi có đủ điều kiện; 3- Trưởng ban tuyên giáo tỉnh ủy đồng thời là hiệu trưởng trường chính trị tỉnh, trưởng ban tuyên giáo huyện ủy đồng thời là giám đốc trung tâm chính trị huyện; 4- Bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã.
Thực hiện các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh về bản chất là quá trình điều chỉnh, hợp nhất chức năng, nhiệm vụ và chức danh lãnh đạo, quản lý trong tổ chức bộ máy, dẫn đến quyền lực được tập trung cao hơn. Một người đồng thời giữ chức vụ đứng đầu tổ chức đảng và tổ chức chính quyền không chỉ giảm chức vụ lãnh đạo, mà còn cho phép sử dụng hiệu quả hơn bộ máy tham mưu của Đảng và bộ máy của Nhà nước để vừa thực hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vừa đề cao vai trò, vị trí của cơ quan nhà nước. Việc này tạo cơ hội, điều kiện cấu trúc lại mối quan hệ giữa tổ chức đảng và tổ chức chính quyền, khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, tạo sự liên thông giữa cơ quan đảng và cơ quan nhà nước, làm cho quá trình triển khai thực hiện chủ trương của tổ chức đảng được nhanh hơn, thuận lợi hơn, khi người đứng đầu thực sự có năng lực, phẩm chất và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Thực tế cho thấy, tư tưởng, hành động của người đứng đầu không phải lúc nào cũng công tâm, minh bạch do bị nhiều yếu tố chi phối, tác động. Điều này đặt ra vấn đề kiểm soát quyền lực đối với người đứng đầu là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết. Trong mô hình kiêm nhiệm chức danh, quyền lực của người đứng đầu là rất lớn, nhất là khi người đó vừa giữ chức vụ đứng đầu cấp ủy, vừa giữ chức vụ đứng đầu chính quyền cùng cấp (bí thư đồng thời là chủ tịch UBND). Trên cương vị người đứng đầu cả hai chức danh này, nếu tính đảng và trách nhiệm công vụ không cao, càng có điều kiện để độc đoán, chuyên quyền và hạn chế dân chủ trong bàn định, phản biện các quyết sách, dù là ở khía cạnh lãnh đạo hay quản lý, khi những quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được cụ thể hóa một cách thống nhất và đồng bộ. Tổ chức bộ máy có chức năng, nhiệm vụ nhiều hơn thì cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu, có nhiều quyền hạn hơn. Nếu không có cơ chế phù hợp thì dễ dẫn đến tình trạng bao biện, làm thay, lộng quyền, lạm quyền, thậm chí lợi dụng quyền lực để vụ lợi; việc kiểm soát quyền lực trong quá trình vận hành của tổ chức bộ máy và trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, nhất là người đứng đầu, sẽ khó khăn hơn. Từ đó, có thể nảy sinh tình trạng vừa dựa dẫm hoặc “núp” vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung... Và do vậy, các việc làm tắc trách, trì trệ, lạm dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm” dễ có môi trường, điều kiện nảy sinh.
Từ thực tiễn hoạt động kiểm soát quyền lực gắn với thực hiện mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh thời gian qua cho thấy một số ưu điểm như sau:
Một là, phương thức lãnh đạo của cấp ủy được đổi mới, các nhiệm vụ chính trị được thực hiện đồng bộ, linh hoạt, kịp thời hơn; tạo sự thống nhất giữa chủ trương, nghị quyết của cấp ủy với chương trình hành động và việc triển khai tổ chức thực hiện của UBND; góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy; tăng cường mối quan hệ phối hợp công tác, từng bước khắc phục hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, để nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, nhất là cấp phó; đồng thời, góp phần giảm thiểu các vị trí, chức danh lãnh đạo, giảm biên chế, tinh gọn bộ máy, phù hợp với yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng và chủ trương cải cách hành chính. Việc cụ thể hóa chủ trương của cấp ủy thành kế hoạch và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ được trực tiếp hơn, nhanh hơn, khắc phục sự trông chờ, ỷ lại của chính quyền hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền.
Hai là, một số chủ trương, nghị quyết, quy định về kiểm soát quyền lực, ngăn chặn tình trạng lạm quyền, độc quyền, chuyên quyền được ban hành trong nhiệm kỳ vừa qua đã góp phần phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Việc xây dựng và thực hiện pháp luật đã có bước tiến trong ngăn chặn hành vi tham nhũng và tiêu cực. Việc ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư(1) đã tạo ra một cơ chế mạnh mẽ để kiểm soát quyền lực, ngăn chặn việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của cán bộ, đảng viên, “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”. Vai trò của cơ quan chức năng, như thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đã tạo ra một hệ thống kiểm soát mạnh mẽ, độc lập và công bằng trong các cơ quan, tổ chức; từ đó, bảo đảm sự trung thực và trách nhiệm trong công tác quản lý, điều hành.
Ba là, tinh thần trách nhiệm, tính tích cực của người đứng đầu được phát huy; công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và đề ra chủ trương, nghị quyết bảo đảm sát hợp thực tiễn; sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội nhịp nhàng, đồng bộ và hiệu quả hơn, khắc phục tình trạng nghị quyết chậm đi vào cuộc sống; qua đó, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, nhất là trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết những vấn đề bức xúc tại địa phương, cơ sở. Đây thực sự là phương thức hữu hiệu để rèn luyện, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương, cơ sở.
Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đạt được, công tác kiểm soát quyền lực trong quá trình thực hiện các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được khắc phục, điều chỉnh cho phù hợp; cụ thể là: 1- Cơ chế kiểm soát quyền lực đã và đang tập trung kiểm soát ở các cơ quan, đơn vị chưa thực hiện sáp nhập, hợp nhất chức danh, nhưng chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực đối với đơn vị đang tiến hành hợp nhất chức danh, nên còn lúng túng, khó khăn trong tổ chức thực hiện ở những nơi này; 2- Trình độ, năng lực của một số cán bộ ở các cơ quan, đơn vị thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh và ngăn chặn tiêu cực, tham nhũng chưa cao nên không thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực. “Cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực đối với người đứng đầu chưa hoàn thiện, có thể dễ dẫn đến tiêu cực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng”(2); 3- Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra ở một số cơ quan, đơn vị đang thực hiện mô hình tổ chức mới, hợp nhất chức danh chưa thực hiện nghiêm, nên có một số cán bộ, đảng viên vi phạm. Một số cán bộ, nhất là người đứng đầu cơ quan theo mô hình tổ chức mới chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; 4- Việc thực hiện Quy chế dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số cơ quan, đơn vị hợp nhất chức danh chưa đi vào nền nếp; 5- Một số cấp ủy chưa thật quyết liệt, có nơi còn chủ quan, nóng vội, lúng túng, kết quả thực hiện chưa đồng đều giữa các địa phương. Đánh giá về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Một số cấp ủy chưa thật quyết liệt, có nơi còn chủ quan, nóng vội, lúng túng, kết quả đạt được chưa đồng đều giữa các địa phương; một số mô hình triển khai trong phạm vi hẹp, chủ yếu ở cấp huyện, hiệu quả hạn chế, cá biệt có nơi gặp khó khăn đã dừng thí điểm khi chưa có chủ trương của Trung ương; một số cán bộ, nhất là người đứng đầu cơ quan theo mô hình tổ chức mới chưa đáp ứng được yêu cầu”(3).
Một số giải pháp tăng cường, nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong thực hiện mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh hiện nay
Qua sơ kết, đánh giá, rút kinh nghiệm về thực hiện các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh(4), Bộ Chính trị đã có chủ trương tạm dừng thực hiện thí điểm các mô hình sau: 1- Hợp nhất cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy với cơ quan chuyên môn thuộc chính quyền cùng cấp có chức năng, nhiệm vụ tương đồng; 2- Chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp ủy đồng thời là chánh thanh tra cấp tỉnh, cấp huyện; 3- Trưởng ban tổ chức cấp ủy cấp tỉnh đồng thời là giám đốc sở nội vụ, trưởng ban tổ chức cấp ủy cấp huyện đồng thời là trưởng phòng nội vụ cấp huyện; 4- Chánh văn phòng cấp ủy cấp huyện đồng thời là chánh văn phòng HĐND và UBND cấp huyện. Đồng thời, căn cứ tình hình địa phương và yêu cầu đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương chủ động quyết định thực hiện một số mô hình sau: 1- Hợp nhất các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; 2- Trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện. Bên cạnh đó, một số địa phương tiếp tục tổ chức đảng bộ khối doanh nghiệp cấp tỉnh, thực hiện mô hình trưởng ban tuyên giáo tỉnh ủy đồng thời là hiệu trưởng trường chính trị tỉnh, trưởng ban tuyên giáo huyện ủy đồng thời là giám đốc trung tâm chính trị huyện; bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã.
Trước thực tế đó, để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong quá trình thực hiện các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, bảo đảm “nguyên tắc” tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong khi thực hiện các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh. Để triển khai mô hình này, cần hội đủ các điều kiện cơ bản là: Cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, uy tín; ban thường vụ nơi triển khai mô hình phải đoàn kết, thống nhất vì mục tiêu chung; bộ máy tham mưu giúp việc phải có năng lực tham mưu, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ; xây dựng, ban hành quy định, quy chế rõ ràng để phân định chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ của bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND với cấp ủy, với HĐND và UBND một cách minh bạch, bảo đảm thông tin nhanh và thông suốt, dân chủ được mở rộng và chủ động kiểm soát quyền lực.
Hai là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ; sắp xếp tổ chức bộ máy bên trong của các cơ quan, tổ chức theo hướng giảm đầu mối trực thuộc, trung gian, số lượng cấp phó. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động điều hành, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định, hướng dẫn về kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; về cơ chế quản lý tài chính; về phân công, phân cấp giữa Trung ương với địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương.
Ba là, thiết kế mô hình kiểm soát, quản lý, kiểm tra, giám sát chặt chẽ; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát nội bộ và của cấp trên theo Điều lệ Đảng và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, bảo đảm “các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm”(5).
Bốn là, quy định chế độ chất vấn đối với người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và xác lập quy chế phản biện của nhân dân trước khi ban hành các quyết sách, với tư cách là “kênh” kiểm soát quyền lực trực tiếp. Các cấp ủy tăng cường lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát, trong đó tập trung điều chỉnh, bổ sung quy chế làm việc; cụ thể hóa quyền hạn, trách nhiệm tập thể, cá nhân trong thực hiện thí điểm mô hình tổ chức và kiêm nhiệm chức danh; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; phát huy vai trò giám sát của HĐND. Chú trọng, “tăng cường phối hợp giữa giám sát, kiểm tra của Đảng với giám sát, thanh tra của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả”(6). Xây dựng một hệ thống góp ý, phản hồi mạnh mẽ và linh hoạt để nhận được ý kiến đóng góp, phản hồi từ các thành viên trong cơ quan, đơn vị, xã hội và nhân dân.
Năm là, thực hiện văn hóa công vụ trong mỗi cơ quan, đơn vị, góp phần hình thành phong cách ứng xử, lề lối làm việc chuẩn mực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; bảo đảm tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân. Tiếp tục nghiên cứu chế độ, chính sách đãi ngộ tốt hơn cho cán bộ, công chức; hoàn thiện thể chế, cơ chế quản lý, hệ thống pháp luật chặt chẽ, nghiêm minh, xử lý đúng người, đúng tội đối với cán bộ lợi dụng quyền hạn, chức vụ để trục lợi./.
------------------------
(1) Như: Quy định số 98-QĐ/TW, ngày 7-10-2017, của Bộ Chính trị, “Về luân chuyển cán bộ”; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Kết luận số 34-KL/TW, ngày 7-8-2018, của Bộ Chính trị, “Về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả””; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”; Thông báo số 16-TB/TW, ngày 7-7-2022, Kết luận của Bộ Chính trị, “Về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII”;...
(2) Xem: Báo cáo số 153-BC/BTCTW, ngày 11-2-2022, của Ban Tổ chức Trung ương, “Báo cáo Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17-4-2015, của Bộ Chính trị, “Về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức””
(3) Thông báo số 16-TB/TW, ngày 7-7-2022, Kết luận của Bộ Chính trị, “Về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII”
(4) Thông báo số 16-TB/TW, ngày 7-7-2022, Kết luận của Bộ Chính trị, “Về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII”
(5) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 40 - 41
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 190