Tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam

ThS. Nguyễn Khánh Dư - Ban Tuyên giáo Trung ương
23:12, ngày 27-06-2013
TCCSĐT - Đại hội XI của Đảng đã xác định đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế là định hướng tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ phát triển theo chiều sâu.

1. Thành công của cải cách kinh tế và hội nhập của nước ta trong hơn 26 năm đổi mới vừa qua đã được thừa nhận một cách rộng rãi ở cả trong và ngoài nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm trong giai đoạn 2000 - 2010 là 7,26%. Năm 2011, 2012, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, suy giảm tăng trưởng ở nhiều nước, khu vực kinh tế trên toàn cầu thì tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn đạt mức 5,89% và 5,03%. GDP theo giá thực tế năm 2011 đã gấp hơn 3,8 lần so với năm 2000; từ năm 2010, nước ta đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới. Việt Nam đã đạt được thành tích vượt bậc về xóa đói giảm nghèo; năm 2012, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm xuống chỉ còn khoảng hơn 10%. Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển đổi tích cực theo hướng hiện đại; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã được cải thiện đáng kể cả về số lượng và chất lượng; một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao đã bắt đầu hình thành và phát triển.

Bên cạnh những thành công nêu trên, trong thời gian gần đây, nền kinh tế nước ta đang phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Cụ thể là, tăng trưởng GDP tuy vẫn ở mức tương đối cao nhưng đang có xu hướng giảm dần. Ngược lại, lạm phát luôn ở mức cao hơn nhiều so với mức lạm phát bình quân của các nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới; ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, kinh doanh và đời sống dân cư. Thời gian gần đây, lạm phát đang có xu hướng giảm, nhưng vẫn còn ở mức cao và xu hướng giảm chưa thực sự ổn định, bền vững. Các cân đối vĩ mô (gồm thâm hụt cán cân vãng lai, thâm hụt tài khóa, chênh lệch tiết kiệm trong nước và đầu tư xã hội, dữ trự ngoại tệ quốc gia...) chưa vững chắc đã nhiều năm; sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, thách thức; số doanh nghiệp phải giải thể, tạm ngừng sản xuất hoặc thu hẹp quy mô sản xuất tăng lên đáng kể; nợ xấu của các tổ chức tín dụng gia tăng, một số tổ chức tín dụng đã gặp khó khăn về thanh khoản; tốc độ giảm nghèo có phần giảm, xu hướng tái nghèo xuất hiện.

Tốc độ tăng GDP bình quân năm trong giai đoạn 2000 - 2005 là 7,5%, giai đoạn 2006 - 2010 là 7%; nếu tính riêng giai đoạn năm 2008 - 2010 thì chỉ khoảng 6%; năm 2011, tăng trưởng GDP chỉ là 5,89%, năm 2012: 5,03%... Tăng trưởng GDP của nước ta không còn ở mức cao trong khu vực, năm 2010 về tăng trưởng GDP, nước ta đứng thứ 5 trong khu vực, đứng thứ 26 trên thế giới, năm 2011 đứng thứ 4 trong khu vực và đứng thứ 28 trên thế giới; trong các năm gần đây, tăng trưởng GDP của nước ta luôn thấp hơn mức bình quân của các nước đang phát triển. Lạm phát trung bình giai đoạn 2000 - 2005 là 5,1%/năm; giai đoạn 2006 - 2010 là 11,4%/năm. Năm 2011 tỷ lệ lạm phát hơn 18% so với năm 2010. Năm 2012, tuy lạm phát được khống chế ở mức 6,81% nhưng kết quả đạt được chưa thật sự bền vững, nền kinh tế vẫn tiềm ẩn những yếu tố gây lạm phát cao trở lại. Từ năm 2007, lạm phát luôn ở mức hai con số (trừ năm 2009, năm 2012), cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng và thuộc vào một trong số các nền kinh tế có lạm phát cao trên thế giới.

Thực trạng nêu trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nguyên nhân ngắn hạn và dài hạn, nhưng chủ yếu là do các yếu tố thuộc về cơ cấu và mô hình tăng trưởng, bao gồm:

- Tăng trưởng kinh tế nước ta theo chiều rộng là chủ yếu. Động lực tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao phụ thuộc chủ yếu vào gia tăng nguồn vốn đầu tư và gia tăng số lượng lao động. Tỷ lệ đầu tư toàn xã hội quá lớn (trong nhiều năm là 40% - 42% GDP). Năm 2008, tổng đầu tư trên GDP của Việt Nam cao thứ hai thế giới (trong số 145 nước được xếp hạng). Đóng góp của đầu tư cho tăng trưởng GDP tăng rất nhanh (từ 5% vào năm 1990 lên trên 60% năm 2010). Đồng thời, đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp cho tăng trưởng giảm rất nhanh (từ gần 50% vào năm 1990 xuống 40% năm 2000 và khoảng 16% năm 2010). Tăng trưởng phụ thuộc quá nhiều vào gia tăng đầu tư dẫn đến những hệ lụy như gia tăng gánh nặng nợ, nhất là nợ công; khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên; gia tăng ô nhiễm môi trường…

- Nhà nước tham gia quá sâu, trực tiếp và chi phối quá trình hoạt động đầu tư, kinh doanh, trong khi lại chưa thực hiện tốt các chức năng quan trọng thuộc về quản lý nhà nước như quy hoạch, kế hoạch, giám sát và điều hành kinh tế vĩ mô. Cho dù đã nhiều năm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN nhưng cách thức quản lý, điều hành của Nhà nước vẫn mang nặng dấu ấn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Nền kinh tế lấy doanh nghiệp nhà nước làm động lực trọng tâm, nhưng tính hiệu quả, mô hình quản lý của khu vực doanh nghiệp nhà nước còn nhiều vấn đề phải xem xét, khắc phục. Trong giai đoạn 2006 - 2009, doanh nghiệp nhà nước chiếm 45% tổng đầu tư của khu vực doanh nghiệp, nhưng chỉ đóng góp 28% cho GDP và 19% cho tăng trưởng GDP; 24% việc làm và (âm) 22% cho việc làm mới; 20% giá trị sản xuất công nghiệp và 8% tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp. Chính phủ chi khoảng 1/3 ngân sách cho đầu tư phát triển. Xét về tỷ lệ vốn đầu tư công so với GDP thì Chính phủ Việt Nam là nhà đầu tư lớn nhất so với chính phủ các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á.

Hoạt động đầu tư nhìn chung hiệu quả thấp. Xét tương quan với tốc độ tăng trưởng kinh tế (hệ số ICOR), hiệu quả đầu tư của Việt Nam ở mức rất thấp. Trong đó, đầu tư công kém hiệu quả nghiêm trọng: ICOR của khu vực công hiện cao gấp rưỡi ICOR chung của nền kinh tế và gấp đôi ICOR của khu vực dân doanh.

- Phát triển quy mô tín dụng quá lớn, tiềm ẩn những nguy cơ, rủi ro. Nếu như năm 1995, tổng đầu tư tích lũy mới chỉ khoảng 100% GDP thì năm 2010, tỷ lệ này lên tới gần 400% GDP. Để đáp ứng lượng đầu tư khổng lồ này, tổng dư nợ tín dụng tăng từ 25% GDP năm 1995 lên 50% năm 2003 và 135% năm 2010. Năm 2012, tuy dư nợ tín dụng đã được khống chế một bước (khoảng 28,5%), nhưng hệ quả của sự phát triển tín dụng quá “nóng” những năm trước đó vẫn đe dọa sự ổn định hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia, ảnh hưởng đến tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.

- Điều hành kinh tế vĩ mô còn nhiều bất cập. Chúng ta vẫn còn tiếp tục sử dụng hệ điều hành “cũ” (cơ chế, công cụ, phương pháp,…) cho một nền kinh tế “mới”. Đó là nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành phần kinh tế, trong đó, khu vực nhà nước chỉ còn chiếm khoảng 1/4 GDP. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), mở cửa, hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế mở với kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương 150% - 160% GDP.

Trong những điều kiện đó, phạm vi can thiệp trực tiếp của Nhà nước đã bị thu hẹp rất nhiều. Công cụ quản lý của Nhà nước phải hướng đến là chính sách, pháp luật, thanh tra, kiểm tra, giám sát.

Những bất cập trong quản lý vĩ mô nền kinh tế làm cho những bất ổn vĩ mô diễn ra ngày một nhiều hơn. Tín dụng quy mô lớn so với nền kinh tế, tiết kiệm suy giảm, đầu tư nhiều, nhưng hiệu quả thấp, dẫn đến lạm phát cao (vì nhiều tiền nhưng ít hàng); lãi suất cao và đồng tiền chịu sức ép giảm giá (do lạm phát cao); thâm hụt ngân sách lớn (vì chi tiêu quá nhiều); thâm hụt thương mại lớn (vì cầu trong nước quá cao nhưng năng lực sản xuất không đáp ứng được); “bong bóng” tài sản, nhất là bất động sản (vì quá nhiều tiền nhưng lợi nhuận của hoạt động sản xuất thấp).

2. Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra nhận xét sau:

Một là, các yếu tố của mô hình trưởng theo chiều rộng (trước hết là gia tăng quy mô vốn đầu tư và lao động) đã đến mức tới hạn; động lực tăng trưởng phụ thuộc vào gia tăng vốn đầu tư, gia tăng số lượng lao động... đã yếu đi và đang giảm dần.

Đặc biệt, yếu tố nhân khẩu học thuận lợi (cơ cấu dân số vàng), từng đóng góp tới 1/3 mức tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quá khứ, nhưng hiện đang suy yếu dần. Một số doanh nghiệp đã thông báo tình trạng thiếu hụt lao động tại các thành phố lớn, đặc biệt là lao động có tay nghề phù hợp. Tỷ trọng dân số trong độ tuổi (5 - 19 tuổi) giảm dần từ mức 34% vào năm 1999 xuống còn 27% vào năm 2010 và sẽ chỉ còn 22% vào năm 2020. Theo dự báo của Chính phủ, lực lượng lao động Việt Nam có thể sẽ chỉ tăng 0,6%/năm trong thập niên tới, nghĩa là chỉ bằng gần 1/4 mức tăng 2,8%/năm trong những năm 2000 - 2010. Gia tăng lực lượng lao động vẫn sẽ tiếp tục là một trong những đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế nhưng mức độ đóng góp đó sẽ thấp hơn nhiều so với giai đoạn trước.

Trong khi động lực tăng trưởng theo chiều rộng của nền kinh tế đang suy giảm và yếu dần thì các động lực của tăng trưởng theo chiều sâu (gồm năng suất và hiệu quả sử dụng nguồn lực) chưa được cải thiện đáng kể để đủ bù đắp những thiếu hụt của tăng trưởng theo chiều rộng. Hệ quả là, tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế đang giảm, và bản thân nền kinh tế nước ta hiện nay tự nó không còn có khả năng duy trì mức tăng trưởng cao như những năm trước đây.

Để giữ nhịp độ tăng trưởng đã đạt được trong thời gian qua, chúng ta cần bù đắp sự suy giảm lợi thế cơ cấu dân số vàng bằng cách tăng năng suất lao động, năng suất của nền kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Muốn kinh tế tăng trưởng bình quân 7%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam cần đẩy nhanh 1,5 lần để đạt mức khoảng 6,4%/năm so với mức bình quân 4,1%/năm trước đây. Đây là một thách thức vô cùng lớn bởi khả năng nâng cao năng suất nhờ tái phân bổ lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ tất yếu sẽ suy giảm theo thời gian. Vì vậy, để đạt được mục tiêu trên, Việt Nam sẽ cần đến sự đóng góp mạnh mẽ hơn nữa của yếu tố tăng trưởng năng suất trong từng ngành kinh tế.

Từ năm 2000, mức đầu tư toàn xã hội của Việt Nam đã vượt 30% GDP, thậm chí đạt 40% vào năm 2007. Năm 2012, tổng mức đầu tư toàn xã hội tăng 7% so với năm trước, bằng 28,5% GDP. Rõ ràng, khả năng tiếp cận nguồn vốn đầu tư không thể là một trở ngại cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian trước mắt, nhưng thách thức đối với nước ta là phải làm thế nào để bảo đảm nguồn vốn đó được phân bổ cho nền kinh tế thông qua những khoản đầu tư hiệu quả nhất. Nghĩa là, cần giảm đầu tư vào các doanh nghiệp không tạo ra lợi nhuận, kể cả các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời, tăng cường giám sát tài chính để bảo đảm đồng vốn đầu tư được đầu tư một cách đúng đắn vào những mục đích sử dụng đem lại hiệu quả và lợi nhuận cao nhất. Hiện tại, các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù có hiệu quả sử dụng vốn thấp hơn, song lại dễ dàng tiếp cận vốn hơn so với các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài nhà nước. Với vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước, việc nâng cao năng suất, hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa quan trọng. Đồng thời, năng suất, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cũng phải được nâng cao.

Hai là, cùng với việc duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng theo chiều rộng không còn phù hợp, thì chủ trương, chính sách và cách thức quản lý, điều hành nền kinh tế ở các cấp, các ngành chưa thay đổi kịp thời; chậm khắc phục các điểm “nghẽn” (về kết cấu hạ tầng, về thể chế và nguồn lực lao động có trình độ cao) kìm hãm gia tăng năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Gia tăng vốn đầu tư dưới các hình thức và kênh khác nhau vẫn là công cụ chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng. Để đáp ứng yêu cầu nói trên, chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng đã phải liên tục duy trì trong nhiều năm; và đó là một trong các nguyên nhân quan trọng của lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô ở nước ta trong thời gian gần đây.

3. Những lý do trên đây buộc chúng ta phải tiến hành tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Nhận thức rõ những yếu kém nội tại của nền kinh tế nước ta, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là quan điểm phát triển cơ bản và đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế là định hướng tổng quát của phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011 - 2020. Hội nghị Trung ương 3 khoá XI (tháng 10-2011) đã quyết định các nội dung cơ bản tái cơ cấu kinh tế trong đó tập trung ưu tiên tái cơ cấu 3 lĩnh vực quan trọng nhất: tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; và cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác. Thực hiện chủ trương nói trên, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020, trong đó tập trung tái cơ cấu đầu tư công, các tổ chức tín dụng, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

Thực hiện Đề án nêu trên, cần phải có đồng bộ hệ thống giải pháp, trong đó, đặc biệt chú trọng hoàn thiện thể chế quản lý vĩ mô và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.

Thể chế là yếu tố có vai trò quyết định trong phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng một cách bền vững. Hoàn thiện một bước thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN với những thủ tục hành chính công khai, minh bạch sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho đầu tư kinh doanh, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, góp phần quan trọng nâng cao sức cạnh tranh chung của nền kinh tế.

Trong xây dựng và hoàn thiện thể chế, phải kiên định quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xuất phát từ nhu cầu phát triển và lợi ích của người dân, doanh nghiệp. Cần xây dựng chính sách có tính dự báo và ổn định để người dân và doanh nghiệp định hướng đầu tư, phân bổ nguồn lực và dự tính được hiệu quả. Cần tính toán hiệu quả xã hội khi thực hiện, khắc phục tình trạng không ít chính sách mà chi phí thực thi lại lớn hơn lợi ích phát triển. Cần phản ứng chính sách nhanh nhạy, hợp lý trong điều kiện thay đổi nhanh chóng của thị trường. Muốn vậy, phải tôn trọng quy luật kinh tế, nâng cao năng lực dự báo, tính toán đầy đủ phản ứng của thị trường và các hệ quả có thể xẩy ra.

Trong nội dung của tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng, không chỉ vì doanh nghiệp nhà nước đang sử dụng nguồn lực lớn nhưng hiệu quả đạt được chưa tương xứng mà còn do doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể quan trọng trong đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước cũng đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức tín dụng của nền kinh tế, có tỷ lệ nợ xấu khá cao trong tổng nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Các tập đoàn và tổng công ty nhà nước phải tập trung nguồn lực vào lĩnh vực kinh doanh chính nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách phát triển công nghiệp, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân. Hoàn thiện cơ chế thực hiện chức năng chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp; tăng cường giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước./.