TCCSĐT- Nhân kỷ niệm 35 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2010) TCCSĐT xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc câu chuyện về ký ức mùa Xuân toàn thắng của Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phái viên của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, người đã trực tiếp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Kỳ 4: Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa
 
Trong cuộc đời quân ngũ của tôi, có những lần nhận được lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, mà khi đọc âm vang trong tâm hồn tôi như một lời hịch của non sông đất nước. Đó là trường hợp xảy ra vào ngày 7-4-1975, khi tôi đang là phái viên của Tổng cục Chính trị theo sát cánh quân duyên hải. Trên đường hành quân tiến vào Sài Gòn, tôi nhận được bức điện của Đại tướng Tổng Tư lệnh với mệnh lệnh: Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.

Mệnh lệnh này được truyền đạt tức khắc đến khắp các đơn vị thuộc cánh quân duyên hải. Cánh quân này mới được thành lập không nằm trong dự kiến từ trước, gồm lực lượng Quân đoàn 2 vừa giải phóng Đà Nẵng, Sư đoàn 3 Sao Vàng thuộc Quân khu 5, các đơn vị pháo binh, cao xạ, xe tăng, công binh, có nhiệm vụ đánh địch trong hành tiến, khẩn trương hành quân để kịp cùng các đơn vị bạn tham gia giải phóng Sài Gòn. Đồng chí Lê Trọng Tấn là Tư lệnh, đồng chí Lê Quang Hòa là Bí thư Ban Cán sự Đảng lâm thời.

Cán bộ, chiến sĩ hồ hởi lên đường, muốn bay thật nhanh về Nam. Vậy mà, mới ra khỏi Đà Nẵng đã gặp trở ngại đầu tiên tốc độ hành quân bị chậm lại do cầu Câu Lâu bắc qua sông Thu Bồn đã bị địch phá sập 2 nhịp, lực lượng công binh khắc phục cầu tạm cho các đơn vị nhẹ đi trước và triển khai một bến phà quân sự để chở các loại xe trọng tải lớn. Một người dân vùng mới giải phóng cho biết, cách cầu Câu Lâu khoảng hơn 10 km có một cây cầu, thế là cả đoàn xe tăng rầm rập cơ động dọc theo sông Thu Bồn bù lại thời gian đã mất.

Dọc đường qua các tỉnh miền Nam Trung bộ mới được giải phóng, đông đảo đồng bào ra đứng hai bên đường hoan hô bộ đội. Ngày 10-4, đơn vị hành quân đến Phan Rang (cách Sài Gòn 350 km) thì gặp tuyến phòng thủ từ xa của địch. Tại đây có 2 cảng Tân Thành và Ninh Chữ, có sân bay Thành Sơn với lực lượng bộ binh và một sư đoàn không quân ngụy. Sáng 14-4, quân ta nổ súng đánh Phan Rang, quân địch được phi pháo yểm hộ, dựa vào hệ thống công sự và địa hình có lợi, ngoan cố chống cự. Sáng 16-4, Tư lệnh Quân đoàn 2 Nguyễn Hữu An tổ chức một đội hình thọc sâu gồm xe tăng, thiết giáp đánh thẳng theo đường số 1, chiếm thị xã Phan Rang, chiếm 2 cảng Tân Thành và Ninh Chữ, đồng thời theo đường 11 đánh ngược lên phía tây bắc, vu hồi vào sườn phía tây của địch, chiếm sân bay Thành Sơn, thu 40 máy bay còn nguyên vẹn (sau này được dùng để tổ chức phi đội Quyết Thắng ném bom sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28-4). Tối 16-4, tôi và đồng chí Đào Huy Vũ (Tư lệnh bộ đội Tăng - Thiết giáp), phái viên của Bộ, có mặt tại sân bay Thành Sơn, lúc quân ta bắt sống viên Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và viên Chuẩn tướng không quân Phạm Ngọc Sang.

Thừa thắng, bộ binh và xe tăng của Quân đoàn 2 tiến đánh thị xã Phan Thiết. Sáng 20-4, chúng tôi đến Xuân Lộc. Anh Tấn và anh Hòa nhanh chóng bắt liên lạc với Bộ chỉ huy Mặt trận Sài Gòn. Cánh quân duyên hải với hơn 32.000 quân và 2.276 xe pháo, tăng - thiết giáp qua một chặng đường gần một nghìn ki-lô-mét, thực hiện quyết tâm đánh địch mà đi là một đòn chiến lược sáng tạo, kịp thời, đánh thông tuyến số 1 từ Bắc vào Nam đến tận cửa ngõ phía đông Sài Gòn, tăng thêm lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Kỳ sau: Chiến dịch mang tên Bác