TCCSĐT- Nhân kỷ niệm 35 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2010) TCCSĐT xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc câu chuyện về ký ức mùa Xuân toàn thắng của Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phái viên của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, người đã trực tiếp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Kỳ 2: Đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng khẳng định: “Ai làm chủ được Tây Nguyên thì làm chủ được Đông dương”. Trong một lần triệu tập Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên ra Hà Nội tham khảo ý kiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nêu câu hỏi: “Nếu đánh Tây Nguyên thì đánh ở đâu trước?”. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo trả lời: “Đánh Tây Nguyên thì đánh vào Buôn Ma Thuột trước, vì Buôn Ma Thuột là thị xã lớn nhất, là hậu cứ của địch, là nơi trọng yếu mà hiểm yếu. Buôn Ma Thuột là địa bàn chiến lược cơ động, từ đây ta có thể phát triển theo ba hướng: đánh lên bắc Tây Nguyên, xuống đồng bằng ven biển, vào miền đông Nam Bộ, cắt chiến trường miền Nam ra làm đôi. Nguyên tắc “Chọn hướng tấn công chủ yếu là chọn nơi địch yếu mà là hiểm yếu” đã trở thành bài học sâu sắc đối với chúng tôi.

Chiến dịch Tây Nguyên là đòn tấn công đầu tiên trong Kế hoạch chiến lược cơ bản đã được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương duyệt. Do tầm quan trọng của Chiến dịch, Quân ủy Trung ương cử đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng Quân ủy Trung ương trực tiếp tại mặt trận.

Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi một “nước cờ” thần tình: cắm hai quân đoàn ở hai đầu (Quân đoàn 4 ở Đồng Nai và Quân đoàn 2 ở Huế) buộc địch phải điều tổng dự bị chiến lược của chúng là hai Sư đoàn Dù và lính thủy đánh bộ ra hai đầu để giữ hai khu vực chiến lược quan trọng là Huế và Sài Gòn, làm cho thế trận phòng ngự của địch bị căng ra hai đầu, để hở quãng giữa là Tây Nguyên.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại tăng thêm lực lượng cho mặt trận Tây Nguyên, điều Sư đoàn 316 từ Bắc vào và Sư đoàn 968 từ Lào sang. Tây Nguyên bước vào chiến dịch có lực lượng tới bốn sư đoàn và một số trung đoàn độc lập, lại có sự phối hợp của Sư đoàn 3 Sao Vàng thuộc Quân khu 5 và Binh đoàn 559 Trường Sơn. Tây Nguyên thành một Quân đoàn mạnh.

Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng một loạt hoạt động cài thế bao vây, chia cắt, cô lập Buôn Ma Thuột. Các hoạt động nghi binh được tăng cường để thu hút sự chú ý của địch về phía bắc (Kon Tum), đánh trận “giả” ở Plây-cu, địch mắc mưu, đưa Trung đoàn 45, đơn vị mạnh của Sư đoàn 23 ngụy từ Buôn Ma Thuột lên Plây-cu để hở hướng Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột.

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo nói: “Ta ghìm địch ở đầu mạnh (Bắc Tây Nguyên) để phá vỡ địch ở đầu yếu là Nam Tây Nguyên”. Đó là một thành công trong nghệ thuật dùng mưu.

Công tác chuẩn bị chiến đấu cũng rất công phu: san rừng, xẻ núi, bắc cầu, cưa cây sẵn nhưng chưa cho đổ, đến khi cần vượt qua thì đánh đổ cho nhanh. Tất cả đều phải giữ bí mật. Hơn 3 sư đoàn bộ binh với nhiều trung đoàn pháo binh, xe tăng - thiết giáp, nghĩa là hàng chục ngàn bộ đội với các loại vũ khí, xe máy, lán trại, kho tàng, hành quân từ phía bắc xuống nam Tây Nguyên, áp sát Buôn Ma Thuột và Đức Lập, thậm chí ăn Tết rồi mới vào trận mà địch không hề hay biết. Bí mật được giữ tuyệt đối cho đến trước giờ G. Đó là, một thành công lớn trong sự chuẩn bị chiến đấu.

Hai giờ sáng ngày 10-3-1975, ta nổ súng đánh Buôn Ma Thuột, Trung đoàn Đặc công 198 và pháo phản lực (DKB, H12, rốc két) đồng loạt bắn vào khu kho Mai Hắc Đế. Công binh cho đổ cây đã được cưa sẵn, xe tăng, xe bọc thép bật đèn sáng trong đêm mở hết tốc lực tiến vào thành phố, đột phá, thọc sâu, vu hồi, trút bão lửa khiến địch không kịp trở tay.

Trận Buôn Ma Thuột tiếp diễn với trận tiêu diệt lực lượng phản kích của địch bằng đổ bộ đường không. Trong hai ngày 12 và 13-3-1975, địch đổ quân xuống phía đông Buôn Ma Thuột, Phước An và phía tây sân bay Hòa Bình. Địch sa ngay vào các bẫy ta đã giăng sẵn. Các trung đoàn 44 và 45, Sở chỉ huy nhẹ của Sư đoàn 23 ngụy lần lượt bị tiêu diệt. Cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột bị đập tan.

Ngày 14-3-1975, Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu họp với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên, các tướng Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú ở Cam Ranh, quyết định rút khỏi Kon Tum và Plây-cu để bảo toàn lực lượng, thực hiện rút lui chiến lược, co cụm chiến lược. Tuy nhiên, ý đồ đó đã không thể thực hiện được, bởi quân ta với ý chí quyết thắng vượt lên trên sức lực của mỗi người lập tức truy kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch rút chạy trên đường số 7 đã bị bỏ từ lâu, cầu hỏng, phà qua sông không có, hàng trăm xe pháo của địch ùn tắc, quân lính địch bỏ xe tháo chạy. Ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ cánh quân địch rút lui, thu hàng trăm xe pháo các loại. Kon Tum và Plây-cu không cần đánh mà giải phóng.

Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng đã tạo ra một bước phát triển đột biến trong tình hình chiến cuộc. Thời cơ chiến lược xuất hiện. Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị họp, hạ quyết tâm “Khẩn trương chuyển hẳn sang phương án thời cơ, chuyển cuộc tiến công chiến lược thành Tổng tiến công chiến lược, hoàn thành kế hoạch hai năm (1975-1975) ngay trong năm 1975”.

Đây là một quyết tâm rất lớn, rất kịp thời, phát hiện thời cơ chiến lược, nắm bắt thời cơ để chuyển biến cục diện chiến tranh. Đúng là:

“Lạc nước hai xe đành bỏ phí

Gặp thời một tốt cũng thành công”.

Kỳ sau: Đòn tiến công chiến lược thứ hai: Giải phóng Huế - Đà Nẵng.