TCCSĐT - Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Nhằm giới thiệu những nội dung cơ bản của dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, tiếp theo bài "Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta", Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bài viết về vấn đề an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. TCCS Điện tử trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài viết quan trọng này của Thủ tướng.

An sinh xã hội và phúc lợi xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi người dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người  (1), mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy mô, phạm vi an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của các nước có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào quan niệm, chế độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.

Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, cùng với việc không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, tiền công và nâng cao thu nhập cho người lao động, Đảng và Nhà nước rất quan tâm chăm lo đến an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân. Ngay từ Đại hội lần thứ III, Đảng ta đã xác định “…Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị…”. Những năm sau đó, mặc dù trong điều kiện còn hết sức khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính sách phát triển hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội của Đảng. Đến Đại hội IX của Đảng chủ trương này trở thành một định hướng chiến lược để phát triển bền vững đất nước: “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường…”. Đại hội X của Đảng xác định “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân”, “Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”(2).

II

Mười năm qua, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện trên các lĩnh vực: xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm, ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hoá, y tế và giáo dục. Cùng với nguồn lực không ngừng tăng lên và những nỗ lực trong tổ chức thực hiện, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng được bảo đảm tốt hơn, góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đặt trọng tâm vào công tác xoá đói, giảm nghèo, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội để nâng cao mức sống chung của nhân dân, Đảng và Nhà nước đã ban hành và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án và huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo. Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: (1) Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; (2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành nghề; (3) Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Đến nay công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn khoảng 10% (năm 2010); chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần (năm 1999) xuống còn 2 lần (năm 2008). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Đã tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm với nhiều chính sách trợ giúp thiết thực, hàng năm giải quyết được hơn 1,6 triệu việc làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị từ 6,42% (năm 2000) xuống còn khoảng 4,6% (năm 2010), tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân. Thu nhập thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần.

Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm 2001) lên 9,4 triệu (năm 2009), chiếm 18% tổng số lao động. Sau gần 3 năm triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia. Dự kiến đến hết năm 2010 có khoảng 5,8 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 13,4% dân số (năm 2000) lên khoảng 62% (năm 2010). Đặc biệt, đã thực hiện chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo,...

Các chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn thiện. Mức trợ cấp ưu đãi năm 2009 tăng 2,1 lần so với năm 2006. Năm 2010 ngân sách trung ương đã dành gần 19.000 tỷ đồng để thực hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến nay, hơn 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.

Các chính sách trợ giúp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất được thực hiện rộng hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỷ đồng cho hơn 180 nghìn người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người (năm 2010). Hàng năm Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỷ đồng (riêng năm 2009 là 5.000 tỷ đồng) và hàng chục nghìn tấn lương thực, chủ yếu là để trợ giúp khắc phục thiên tai. Từ đầu năm 2008, Chính phủ đã có nhiều chính sách và giải pháp kịp thời, thiết thực nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến sản xuất và đời sống của nhân dân.

Hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt, bảo đảm điều kiện đi lại… đã được quan tâm phát triển, nhất là ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng các dịch vụ nhiều mặt được cải thiện và khả năng tiếp cận của nhân dân ngày càng được nâng cao. Đến nay 100% số xã, phường đã có trạm y tế, trong đó khoảng 75% số xã có bác sỹ; cả nước hiện có khoảng 23 triệu người đang theo học ở các cấp bậc học, đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; 82,5% số hộ nông thôn đã được sử dụng nước hợp vệ sinh; 96,1% số hộ đã được sử dụng điện lưới; 86,9% số hộ sử dụng máy thu hình; trên 97% số xã đã có đường ô tô đi tới trung tâm xã; khoảng 90% số xã có trạm bưu điện văn hoá…

Các phong trào “tương thân tương ái”, “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, các đơn vị và cá nhân chủ động thực hiện và hưởng ứng tham gia đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho mọi người, nhất là những người nghèo, vùng nghèo.

Tuy nhiên, việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội vẫn còn bất cập và yếu kém: giảm nghèo chưa bền vững, số hộ cận nghèo còn nhiều, tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm còn cao. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, khoảng cách thu nhập của các tầng lớp dân cư còn lớn. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hoá và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực cho an sinh xã hội và phúc lợi xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn còn không ít tiêu cực, phiền hà.

Những yếu kém, bất cập trên đây trước hết là do công tác lãnh đạo, quản lý còn nhiều yếu kém, hiệu lực hiệu quả chưa cao, nhận thức về bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa đầy đủ. Chưa hình thành được hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội rộng khắp với những cơ chế chủ động tích cực, bền vững, làm chỗ dựa vững chắc cho người nghèo, hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo. Chưa huy động được mạnh mẽ sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.

III

Bước sang giai đoạn chiến lược mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục coi bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tạo cơ hội bình đẳng hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Đồng thời đề ra mục tiêu đến năm 2020, trong đó GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3000 - 3200 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm; phúc lợi, an sinh xã hội và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được bảo đảm; thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư... Xoá nhà tạm đơn sơ, tỷ lệ nhà kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng/người. Cải thiện chất lượng môi trường, hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng.

Quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước cùng với tiềm lực kinh tế của đất nước được nâng lên là cơ sở quan trọng để bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: công cuộc xoá đói giảm nghèo phải tập trung vào các vùng, các đối tượng khó khăn nhất; một bộ phận không nhỏ lao động của cả nước chưa có nghề hoặc thiếu kỹ năng lao động, đang làm những công việc chưa thật ổn định với tiền lương, tiền công và bảo trợ xã hội thấp; những rủi ro về kinh tế, xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng tăng lên… tác động tiêu cực đến đời sống và an sinh xã hội của nhân dân. Chính vì vậy, cần có nhận thức mới, đầy đủ hơn về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, phát huy thành quả và những kinh nghiệm tốt đã đạt được, khắc phục những yếu kém bất cập để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đồng bộ, hiệu quả cao.

Trước hết, cần khẳng định bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước và là quyền lợi, trách nhiệm của toàn xã hội. Thông qua hệ thống các cơ chế chính sách và nguồn lực của mình, Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân. Nhà nước thực hiện tốt chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực từ kinh tế nhà nước để thực hiện chính sách cơ cấu nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và bảo đảm các yêu cầu cơ bản về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, coi việc thực hiện nhiệm vụ này là một nội dung quan trọng thể hiện vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.

Thứ hai, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phải bảo đảm chủ động, tích cực và có tính xã hội hoá cao. Theo đó, cùng với tăng cường vai trò của Nhà nước, phải huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao trách nhiệm và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng; vừa trợ giúp kịp thời, hiệu quả trong việc bảo đảm mức sống tối thiểu của người dân, vừa góp phần quan trọng thúc đẩy xoá đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Thứ ba, xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đa tầng, linh hoạt, bền vững, có thể hỗ trợ lẫn nhau, công bằng về trách nhiệm và lợi ích, chia sẻ rủi ro, hướng tới bao phủ toàn dân, tập trung hỗ trợ cho những người nghèo, hộ nghèo, những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và tiếp cận với thông lệ quốc tế.

Để thực hiện tốt các yêu cầu trên đây, hiện thực hoá các mục tiêu về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp sau:

1. Đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải quyết việc làm.

Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh sản xuất kinh doanh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ người dân có việc làm, tăng thu nhập là giải pháp xoá đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội tích cực, hiệu quả, bền vững. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, một mặt phải hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa bàn nông thôn; mặt khác phải tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm gắn với thực hiện đề án Đổi mới và phát triển dạy nghề đến năm 2020, chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và có hiệu quả; phát triển mạnh thị trường lao động. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho cả người học và cơ sở dạy nghề, như cho vay ưu đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên…; đẩy mạnh việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

Phấn đấu hàng năm tuyển mới dạy nghề cho khoảng 1,8 triệu người, trong đó có 1 triệu lao động nông thôn; đến năm 2015 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 4%; năm 2020 lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% trong tổng lao động xã hội. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm; chú trọng xây dựng quan hệ lao động hài hoà, điều kiện và môi trường lao động an toàn.

2. Phát triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lượng hệ thống bảo hiểm, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để người dân tích cực tham gia.

Trong điều kiện có những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cùng biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng gia tăng, việc phát triển hệ thống bảo hiểm và sự tham gia rộng rãi của người dân được coi là giải pháp quan trọng nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các tác động bất lợi về kinh tế, xã hội, môi trường. Cần khẩn trương hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách nhằm phát triển hệ thống bảo hiểm ngày càng đa dạng, đồng bộ, bền vững, với chất lượng được nâng cao, phục vụ có hiệu quả các mục tiêu về an sinh, kinh tế và xã hội, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Hệ thống này được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng; có sự chia sẻ hợp lý về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có sự hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng tham gia, nhất là người nghèo, cận nghèo, trẻ em, các đối tượng chính sách và bảo trợ xã hội… Phát triển mạnh cả bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới, gắn với điều chỉnh lương hưu và lộ trình cải cách tiền lương. Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người lao động, trong đó có chính sách hỗ trợ người lao động có thu nhập thấp, lao động ở nông thôn tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội. Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thất nghiệp.

Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các chính sách về bảo hiểm y tế, viện phí và khám chữa bệnh. Đặc biệt chú trọng chính sách đối với bà mẹ, trẻ em, người nghèo, người dân ở vùng khó khăn, người lao động trong các khu vực phi chính thức. Phấn đấu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2014.

Khẩn trương nghiên cứu, thí điểm để mở rộng các hình thức bảo hiểm khác thích ứng với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong đó có chính sách hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm sản xuất nông nghiệp nhằm duy trì sản xuất và bảo đảm đời sống.

3. Thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo bền vững.

Trong thập kỷ tới, xoá đói giảm nghèo vẫn là một nhiệm vụ bức thiết với quy mô rộng lớn, mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc và là một trọng tâm trong công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta. Để thực hiện xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững, phải đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó trọng tâm là triển khai có hiệu quả Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2020 với chuẩn nghèo mới phù hợp với tình hình phát triển của nước ta và tiếp cận với chuẩn quốc tế. Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo phải thiết thực, đồng bộ cả về hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống, tạo việc làm, tiếp cận thị trường; nâng cao khả năng tự vươn lên thoát nghèo bền vững của người dân. Phải bảo đảm lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án và nguồn lực trên từng địa bàn; sự tham gia chủ động của người dân, cộng đồng và cơ sở.

Cùng với việc ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước, tiếp tục huy động sự trợ giúp của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội, động viên người nghèo, vùng nghèo nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững, tiến tới làm giàu. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo hiện có, nhất là chương trình giảm nghèo ở các huyện có số hộ nghèo cao.

Thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, trong đó gắn phát triển kinh tế với xã hội và bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, phát triển nông thôn bền vững.

4. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công và chính sách trợ giúp xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội.

Hiện nay, nước ta có hơn 1,4 triệu người có công với nước đang hưởng chính sách trợ cấp ưu đãi và hơn 1,6 triệu người đang hưởng chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên hàng tháng. Ngoài ra, nhu cầu trợ giúp đột xuất còn rất lớn do tỷ lệ người nghèo, hộ nghèo, cận nghèo còn cao, đa số người già chưa được hưởng chế độ hưu trí, tác động của kinh tế thị trường, dịch bệnh, thiên tai gây thiệt hại ngày càng lớn (3). Vì vậy, thực hiện tốt hơn chính sách ưu đãi người có công với nước và chính sách trợ giúp xã hội không những có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm an sinh, ổn định xã hội, mà còn thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, dân tộc ta.

Thấm nhuần đạo lý và truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, cần tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách và nâng cao chế độ ưu đãi đối với người có công, phù hợp với sự phát triển kinh tế; đồng thời hỗ trợ các gia đình người có công phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập; vận động toàn xã hội tham gia phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, bảo đảm cho những người có công có mức sống cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.

Hoàn thiện các chính sách và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt, ứng phó có hiệu quả với các biến cố, rủi ro, theo hướng cùng với việc tăng cường trợ giúp thường xuyên và đột xuất từ ngân sách nhà nước, phải đẩy mạnh xã hội hoá, đa dạng các kênh và hình thức trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo dựa vào cộng đồng với sự tham gia rộng lớn của các doanh nghiệp, của xã hội và kiều bào ta ở nước ngoài; tranh thủ sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Tiếp tục mở rộng đối tượng và điều kiện hưởng thụ trợ giúp xã hội đến toàn bộ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương với mức trợ giúp phù hợp. Phấn đấu bảo đảm cho mọi người dân khi có thu nhập dưới mức sống tối thiểu đều được nhận trợ giúp xã hội.

Đẩy mạnh việc chủ động phòng chống và ứng phó kịp thời có hiệu quả thiên tai, tác động của biến đổi khí hậu nhằm hạn chế thiệt hại về người và của, nhất là những vùng thường xuyên xảy ra bão lũ; nghiên cứu hình thành các quỹ dự phòng và cơ chế trợ giúp tại các địa phương để hỗ trợ kịp thời cho nhân dân khi có rủi ro đột xuất.

5. Nhà nước tăng thêm nguồn lực và phát huy vai trò chủ đạo để nâng cao phúc lợi xã hội và phát triển đa dạng hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản.

Không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, trước hết là các dịch vụ công cộng cơ bản, bảo đảm công bằng, bình đẳng cho mọi người. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và phân phối lại một bộ phận thu nhập quốc dân, nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần, giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các thành viên, các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội và các vùng miền. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thực hiện tốt yêu cầu này cũng là một biểu hiện thực tế và sinh động bản chất ưu việt của chế độ ta.

Trong thời gian tới, việc bảo đảm phúc lợi xã hội gắn với đẩy mạnh phát triển các dịch vụ xã hội phải vừa trợ giúp mọi người dân được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu về khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện, nước sinh hoạt, văn hoá, thông tin và truyền thông, bảo đảm vệ sinh môi trường, đi lại…, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của nhân dân đối với các dịch vụ này. Cần đẩy mạnh phát triển các quỹ phúc lợi xã hội ở cả 3 cấp độ: quỹ tập trung của Nhà nước; quỹ của các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh; quỹ của các tập thể và cộng đồng. Phát triển hệ thống dịch vụ ngày càng đa dạng, đồng bộ, mở rộng độ bao phủ, với chất lượng ngày càng nâng lên. Quy định rõ công khai, minh bạch mức thụ hưởng các phúc lợi xã hội và dịch vụ cơ bản tối thiểu của người dân; đồng thời phải khắc phục các tiêu cực, phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ này; có chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng khó khăn.

Xây dựng và triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin, thể thao, dân số, gia đình và trẻ em. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là ở các vùng nghèo, đặc biệt khó khăn; đồng thời hoàn thiện các chính sách về miễn giảm học phí, học bổng, tín dụng ưu đãi cho người học, phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi; chính sách khám, chữa bệnh, thụ hưởng văn hoá, thông tin, trợ giúp pháp lý; chính sách nhà ở… cho các đối tượng chính sách, đối tượng khó khăn. Đặc biệt, phải quan tâm làm tốt hơn công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em để con em chúng ta phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần và nhân cách. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá, ấm no, hạnh phúc.

6. Huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện tốt an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.

An sinh xã hội và phúc lợi xã hội có bản chất xã hội sâu sắc gắn kết hữu cơ giữa quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người với mỗi đơn vị, cộng đồng và toàn xã hội. Cùng với việc nâng cao vai trò, chức năng và tăng thêm nguồn lực của Nhà nước, phải thực hiện chủ trương “các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá” (4). Phải huy động các nguồn lực của toàn xã hội để nâng cao an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm mở rộng sự tham gia của mọi chủ thể vào cung cấp ngày càng nhiều hơn với chất lượng tốt hơn các dịch vụ công cộng. Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân đề cao trách nhiệm, nâng cao năng lực và tham gia thiết thực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Khuyến khích phát triển các mô hình an sinh xã hội tự nguyện ở cộng đồng, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng theo cơ chế phi lợi nhuận và các hình thức hợp tác công - tư. Đẩy mạnh các cuộc vận động xã hội như: ngày vì người nghèo, phong trào tương thân tương ái, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết dân tộc...

*

*        *

Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của đất nước ta. Đây cũng là một yêu cầu bức thiết của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Với nhận thức mới và quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước, bằng sự lãnh đạo sáng tạo của cấp uỷ đảng, sự quản lý chỉ đạo có hiệu lực hiệu quả của chính quyền các cấp, sự tham gia sâu rộng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và toàn xã hội, nhất định chúng ta sẽ thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trong giai đoạn chiến lược tới./.



(1) Được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948, Điều 25 “Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có mức sống tối thiểu về sức khoẻ và các phúc lợi xã hội bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, goá phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác”.

(2) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá X).

(3) Bình quân 5 năm gần đây, mỗi năm thiên tai làm chết hơn 500 người, gây thiệt hại về tài sản khoảng 15 nghìn tỉ đồng, bằng 1,2% GDP.

(4) Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam