TCCSĐT - Ngày 28-12, Hội nghị trực tuyến triển khai Nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 của Chính phủ với các địa phương được tổ chức tại Trụ sở Chính phủ.

* Tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã trình bày tóm tắt nội dung chính của dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán Ngân sách nhà nước năm 2019 (Nghị quyết 01) để các bộ, ngành và địa phương đóng góp ý kiến hoàn thiện.

Phó Thủ tướng cho biết, dự thảo Nghị quyết được xây dựng trên tinh thần đổi mới cả về phương pháp, hình thức và nội dung với yêu cầu bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, ngắn gọn; có mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể trong các ngành, lĩnh vực gắn với từng nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực; giảm thiểu những nội dung liên quan đến chức năng, nhiệm vụ thường xuyên của các bộ, cơ quan, địa phương; đồng thời chú trọng công tác tổ chức triển khai, theo dõi, đánh giá, kiểm tra, giám sát thực hiện quá trình soạn thảo Nghị quyết.

Theo đó, dự thảo Nghị quyết nhận định bước sang năm 2019, đất nước tiếp tục có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; chiến tranh thương mại, thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường; thách thức an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gia tăng. Khoa học, công nghệ phát triển nhanh và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tác động mạnh mẽ trên nhiều phương diện.

Trong khi đó, nền kinh tế nước ta còn nhiều tồn tại, hạn chế tích tụ từ trước. Tiềm lực, sức cạnh tranh, năng suất lao động còn thấp; tính độc lập, tự chủ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới cùng với những áp lực ngày càng tăng từ việc thực hiện các cam kết quốc tế.

Do vậy, dự thảo Nghị quyết xác định mục tiêu tổng quát là: “Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tạo chuyển biến thực chất hơn trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và tận dụng có hiệu quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Chú trọng phát triển y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế; cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; quyết liệt phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”.

Với phương châm hành động: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, Chính phủ đề ra 4 trọng tâm chỉ đạo điều hành.

Thứ nhất, nâng cao năng lực nội tại, khả năng chống chịu của nền kinh tế. Củng cố nền tảng vĩ mô, duy trì và khơi thông các động lực tăng trưởng. Quyết liệt thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp.

Thứ hai, xây dựng bộ máy kỷ cương, liêm chính, hành động, phục vụ; tiếp tục tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi. Tập trung hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi pháp luật. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, công vụ. Chú trọng cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy biên chế tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Đổi mới và tăng cường hiệu quả hoạt động tư pháp.

Thứ ba, phát triển toàn diện, hài hòa các lĩnh vực văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Cuối cùng, chủ động, tích cực tham gia chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Tập trung tổng kết và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021 - 2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025.

** Để sẵn sàng cho nền sản xuất tương lai. Đây là một trong những điểm nhấn mới được đưa vào dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh năm 2019 (Nghị quyết 02) được Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giới thiệu tại Hội nghị.

Nhìn lại quá trình xây dựng, thực hiện các Nghị quyết 19 về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh (nay là Nghị quyết 02), Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết, Nghị quyết đã tiếp cận, sử dụng các bảng xếp hạng lớn liên quan đến năng lực cạnh tranh, môi trường kinh doanh nhưng cũng có đầy đủ các tiêu chí xã hội, đặc biệt y tế giáo dục, phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc.

“Từ năm 2014, Nghị quyết sử dụng các chỉ tiêu theo Báo cáo về môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (WB) sau đó mở rộng ra Báo cáo năng lực cạnh tranh quốc gia của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) và đến năm 2018 là 4 bộ chỉ số của WB, WEF, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) về đổi mới sáng tạo và của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) về Chính phủ điện tử. Năm 2019, để phù hợp với bối cảnh thế giới và bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, dự thảo Nghị quyết 02 bổ sung thêm một số chỉ số về du lịch, dịch vụ hậu cần (logistic), năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên 4.0 và đặc biệt là chỉ số trong báo cáo sự sẵn sàng cho nền sản xuất tương lai của WEF”, Phó Thủ tướng nói.

Bắt đầu từ những mục tiêu cụ thể, bức xúc nhất (thuế, hải quan…) qua từng năm đến nay việc thực hiện Nghị quyết 19 đã lan tỏa đến tất cả các bộ, ngành, các cấp.

Nhờ thực hiện Nghị quyết 19 và nhiều giải pháp tổng thể ở Trung ương và địa phương, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng được 13 bậc, năng lực cạnh tranh quốc gia tăng được 5 bậc, chỉ số đổi mới sáng tạo tăng 14 bậc, chỉ số Chính phủ điện tử tăng 1 bậc. Từng chỉ tiêu cụ thể đều có mức cải thiện như tiếp cận điện năng tăng 69 bậc; thuế và bảo hiểm xã hội tăng 36 bậc; khởi sự kinh doanh tăng 17 bậc…

Đáng chú ý, nếu so sánh với mức thu nhập bình quân của người dân Việt Nam tính theo sức mua tương đương (PPP) hiện đạt 7.378 USD, đứng thứ 124 trên thế giới, thì tất cả các chỉ số đều được xếp hạng cao hơn. Ví dụ năng lực cạnh tranh du lịch và lữ hành đứng thứ 67, chỉ số logistic đứng thứ 39, năng lực đổi mới sáng tạo thứ 45…

Bên cạnh các kết quả trên, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng cho biết mục tiêu lọt vào tốp 4 nước ASEAN theo Nghị quyết 19 qua các năm còn rất khó khăn khi phần nhiều chỉ số đứng thứ 5, có những chỉ số đứng thứ 6 - 7 nhưng cũng có chỉ số đứng thứ 3.

Đối với đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp trong nước, qua khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về 11 chỉ tiêu trọng điểm thì có 6/11 chỉ tiêu được đánh giá tốt, rất tốt, có cải thiện nhanh; 5/11 chỉ tiêu còn kém, ít được cải thiện như phá sản doanh nghiệp, bảo vệ nhà đầu tư, thủ tục xuất nhập khẩu, hoặc những chỉ tiêu được quốc tế đánh giá tốt như thủ tục xây dựng đứng thứ 21 nhưng 51% doanh nghiệp vẫn chưa hài lòng.

“Nhiều chuyên gia độc lập đánh giá chính sách chung của chúng ta tốt nhưng thực hiện cụ thể ở bên dưới liên quan đến đội ngũ công chức chưa thực sự tốt”, Phó Thủ tướng nói.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chỉ đạo quyết liệt, tập trung thực hiện, Phó Thủ tướng nhắc lại quá trình sửa đổi, ban hành Nghị định 15 về kiểm tra an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu.

Phó Thủ tướng đã trực tiếp chủ trì 4 cuộc đối thoại trực tiếp giữa doanh nghiệp với Bộ Y tế, các bộ, ngành để sửa đổi, Nghị định, từ đó giảm 95% lô hàng thực phẩm xuất nhập khẩu phải kiểm tra, tiết kiệm 8 triệu ngày công, 3.000 tỷ đồng một năm.

“Quá trình đối thoại về Nghị định 15, trong 10 kiến nghị của doanh nghiệp chỉ có 2 kiến nghị đúng, 3 kiến nghị vừa đúng, vừa sai, 5 kiến nghị thì các cơ quan quản lý nhà nước có lý. Qua đó có thể thấy chúng ta luôn luôn phải cân đối yêu cầu quản lý đồng thời tạo điều kiện thuận lợi chứ không tạo điều kiện thuận lợi một chiều mà buông lỏng quản lý”, Phó Thủ tướng nói.

Qua thời gian thực hiện Nghị quyết 19, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng, vai trò hướng dẫn của các bộ, ngành xuống các địa phương dù đã có cố gắng nhưng chưa thật rõ nét. Hiện mới chỉ có Bộ Khoa học công nghệ có sổ tay hướng dẫn xuống bên dưới, còn lại mới chỉ triển khai ở Bộ mà chưa hướng dẫn xuống ngành dọc. Cùng với đó, việc thực hiện mới chỉ tập trung vào các chỉ tiêu trực tiếp liên quan đến doanh nghiệp mà chưa chú trọng đúng mức đến chỉ tiêu về an sinh, xã hội. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, các cấp chưa thực sự chủ động. Một số cải cách còn hình thức, chưa thực chất. Thái độ phục vụ một bộ phận công chức còn nhiều vấn đề qua phản ánh của doanh nghiệp.

** Tại Hội nghị, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã trình bày Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội năm 2018.

Trình bày Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cho biết: Thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, với phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP, ngày 01-01-2018 gồm 9 nhóm, 56 giải pháp và 242 nhiệm vụ cụ thể; chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật, tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh; đơn giản hóa thủ tục hành chính; cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành; thường xuyên đối thoại, lắng nghe, giải quyết kịp thời hơn kiến nghị của doanh nghiệp, người dân…

Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với tinh thần quyết tâm cao, sự nỗ lực, phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt được kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực; hoàn thành toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch, trong đó có 9 chỉ tiêu vượt, tạo không khí phấn khởi trong toàn xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân; tạo nền tảng để kinh tế - xã hội nước ta bứt phá trong năm 2019, góp phần thực hiện thắng lợi Kế hoạch 5 năm 2016 - 2020.

Một số kết quả nổi bật của năm 2018 là tăng trưởng GDP đạt 7,08%, vượt số đã báo cáo Quốc hội (6,8%), cao nhất kể từ năm 2008, GDP bình quân đầu người đạt 2.587 USD (đã báo cáo Quốc hội là 2.540 USD). Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,54%, là năm thứ 3 liên tiếp CPI ở mức dưới 4%. Chất lượng tín dụng được cải thiện, thanh khoản và an toàn hệ thống được bảo đảm. Tỷ giá, thị trường vàng, ngoại tệ ổn định; dự trữ ngoại hối nhà nước đạt trên 60 tỷ USD.

Thu ngân sách nhà nước vượt trên 6% so với dự toán và tăng khoảng 9% so với thực hiện năm 2017. Bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát ở mức 3,6%. Nợ công trong giới hạn cho phép. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 11,2%, tương đương 33,5% GDP. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 244,7 tỷ USD, tăng 13,8%; tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 237,5 tỷ USD, tăng 11,5%; xuất siêu 7,2 tỷ USD.

Việc thực hiện 3 đột phá chiến lược đạt nhiều kết quả tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư, nhiều công trình trọng điểm, công trình lớn được hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng. Hạ tầng đô thị phát triển mạnh, tỷ lệ đô thị hóa ước 38,4% (chỉ tiêu đến năm 2020 là 38% - 40%). Sản xuất và cung ứng điện tăng mạnh, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Chất lượng nhân lực ngày càng được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 58,6%, trong đó tỷ lệ nhân lực qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ khoảng 23% - 23,5%.

Chính phủ chỉ đạo triển khai quyết liệt các chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh. Chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được cải thiện, giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên. Đóng góp của các nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) ước đạt 43,5% (giai đoạn 2011 - 2015 là 33,6%). Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện với việc cắt giảm, đơn giản hóa 61% điều kiện kinh doanh và 60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất nhập khẩu.

Cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực có bước chuyển biến và đạt những kết quả quan trọng. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến nông sản, chuyển đổi đất lúa sang các loại vật nuôi, cây trồng khác, nhiều mô hình hợp tác xã kiểu mới gắn với chuỗi liên kết đã phát huy hiệu quả. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, có 61 huyện và trên 42% xã đạt chuẩn nông thôn mới, vượt mục tiêu đề ra (38,8%).

Về văn hóa - xã hội, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hoà Bình nêu rõ các chính sách xã hội được thực hiện đồng bộ, hiệu quả; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân được cải thiện. Mở rộng diện và thực hiện tốt chính sách người có công; hoàn thành hỗ trợ nhà ở cho trên 178.000 hộ. Đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững theo phương châm “Không để ai bị bỏ lại phía sau”. Huy động nhiều nguồn lực xã hội cho giảm nghèo, ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn 5,35%, riêng các huyện nghèo giảm khoảng 5%. Mạng lưới khám, chữa bệnh được tập trung đầu tư, nâng số giường bệnh trên 1 vạn dân lên đạt 26,5 giường (hoàn thành trước mục tiêu đến năm 2020 là 26,5 giường). Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên; tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, liên thông kết quả xét nghiệm, chẩn đoán; chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Chất lượng giáo dục được nâng lên, đào tạo bậc đại học được đổi mới. Ứng dụng khoa học công nghệ được đẩy mạnh theo hướng tiếp cận Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Các cấp, các ngành thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước. Ban hành các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ để thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Đã giảm số lượng lớn các Tổng cục, Vụ, cục thuộc Bộ và giảm trên 86.300 biên chế, trong đó có 12.400 công chức.

Thành lập Ủy ban Quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Chính phủ điện tử và các cơ sở dữ liệu quốc gia. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin, kết nối liên thông, cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Đến nay, có khoảng 47 nghìn dịch vụ công trực tuyến được thực hiện ở cấp độ 3, 4 tại các bộ, ngành, địa phương.

Công tác thanh tra được tập trung triển khai theo đúng kế hoạch; ban hành kết luận nhiều vụ việc nghiêm trọng (như AVG, cảng Quy Nhơn, Hãng phim truyện Việt Nam, đất đai tại Đà Nẵng, Thủ Thiêm…), thu hồi số lượng tiền, tài sản lớn về cho Nhà nước.

Công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tập trung chỉ đạo; phối hợp chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia; góp phần nâng cao vị thế đất nước. Theo dõi sát, xử lý kịp thời, phù hợp các tình huống phát sinh. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện quan trọng của đất nước. Chủ động ngăn chặn mọi âm mưu chống phá, không để bị động, bất ngờ. Thực hiện đồng bộ các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí.

Tổ chức thành công nhiều hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Làm sâu sắc hơn các khuôn khổ đối tác chiến lược và toàn diện. Có đối sách phù hợp, kịp thời với các diễn biến, tình huống nhạy cảm phát sinh trong quan hệ quốc tế.

Đề cập đến những tồn tại, hạn chế, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hoà Bình chỉ rõ: Bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Tính tự chủ của nền kinh tế từng bước được nâng lên nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Năng suất lao động, năng lực cạnh tranh tuy đã được cải thiện nhưng còn thấp so với các nước trong khu vực.

Sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh vực còn khó khăn. Một số công trình, dự án chậm tiến độ, chất lượng chưa bảo đảm. Cơ cấu lại ngành, lĩnh vực ở một số nơi còn lúng túng, chưa đồng bộ, chưa gắn với thị trường. Cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước còn chậm, hiệu quả hoạt động còn thấp. Buôn lậu, gian lận thương mại còn diễn biến phức tạp. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai còn nhiều khó khăn. Vẫn còn tình trạng thuốc giả, thuốc kém chất lượng, mất an toàn thực phẩm.

Ở một số địa phương còn xảy ra sai phạm trong tổ chức thi trung học phổ thông và thừa thiếu cục bộ giáo viên. Thị trường khoa học công nghệ phát triển chậm. Còn tồn tại những biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong xã hội. Việc quản lý, khai thác và sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản còn lãng phí, xảy ra nhiều vi phạm.

Ô nhiễm môi trường còn xảy ra ở nhiều nơi. Tình trạng ngập, úng tại một số thành phố lớn chậm được cải thiện. Năng lực xây dựng thể chế, pháp luật còn hạn chế; một số quy định pháp luật chồng chéo, thiếu khả thi, chậm được sửa đổi. Tình hình khiếu nại, tố cáo tuy đã giảm về số lượng nhưng vẫn diễn biến phức tạp ở một số địa phương. Tình hình tội phạm, mất an ninh trật tự xảy ra tại một số địa bàn; còn nhiều vụ tai nạn giao thông, cháy nổ nghiêm trọng.

Vì vậy, nhiệm vụ của năm 2019 là rất nặng nề, đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm cao, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân và nhân dân cả nước. Phát huy kết quả đạt được của năm 2018, các cấp, các ngành cần tập trung khắc phục những hạn chế, bất cập, chung sức đồng lòng, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, phấn đấu hoàn thành thắng lợi, toàn diện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019.

Phó Thủ tướng cũng nêu 5 kinh nghiệm nổi bật cần phát huy nhằm tạo chuyển biến về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh. Đó là sự kiểm tra, đôn đốc của Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, Tổ công tác của Thủ tướng; chỉ đạo trực tiếp của người đứng đầu bộ, ngành, địa phương; đối thoại trực tiếp giữa các bộ, ngành với hiệp hội, doanh nghiệp; công khai minh bạch, tăng cường truyền thông; cung cấp số liệu theo mẫu của các tổ chức quốc tế xếp hạng, đánh giá./.