TCCSĐT - Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó nghiêm trọng nhất là thách thức do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như nước biển dâng, tình trạng xâm nhập mặn, lở đất, lũ thất thường,… Để vượt qua thách thức, biến đồng bằng sông Cửu Long thành một vùng phát triển thịnh vượng, ngày 17-11-2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thách thức từ biến đổi khí hậu đối với đồng bằng sông Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng màu mỡ trên thế giới với các điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng cực kỳ thuận lợi cho phát triển nông nghiệp; là một trong những vùng đồng bằng có sản lượng nông sản lớn nhất khu vực Đông Nam Á và đứng đầu Việt Nam.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có tổng diện tích 3,94 triệu ha và dân số 17,5 triệu người, chiếm 12% diện tích tự nhiên và 20% dân số cả nước, có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của cả nước. Trong thời gian qua, đồng bằng sông Cửu Long luôn là vựa lúa lớn nhất của cả nước, đóng góp quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu. Tính đến tháng 4-2017, đồng bằng sông Cửu Long đã "đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% lượng thủy sản nuôi trồng, 36,5% lượng trái cây, cung cấp 90% sản lượng lúa gạo xuất khẩu và 65% sản lượng thủy sản xuất khẩu của cả nước". Nhiều mặt hàng nông sản của đồng bằng sông Cửu Long đã có mặt và được ưa chuộng tại nhiều nơi trên thế giới, như xoài, chôm chôm, vú sữa,...

Trong quá trình phát triển, bên cạnh những mặt tích cực, đồng bằng sông Cửu Long đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó nghiêm trọng nhất là thách thức do biến đổi khí hậu: nước biển dâng, tình trạng xâm nhập mặn, lở đất, lũ thất thường,… Biến đổi khí hậu tác động, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đối với sự phát triển của đồng bằng sông Cửu Long mà đối với cả nền kinh tế Việt Nam nói chung. Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, đứng thứ 5 trên toàn cầu về thiệt hại do biến đổi khí hậu. Trong năm 2016, rét đậm, rét hại ở miền Bắc, hạn hán ở Tây Nguyên và Nam Trung Bộ, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, mưa lũ ở miền Trung,… xảy ra với mức độ gay gắt, thiệt hại lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống người dân. Tổng thiệt hại do thiên tai "trong năm 2016 lên đến 1,7 tỷ USD, chiếm tới 0,8% GDP". Đồng bằng sông Cửu Long lại là một trong số ít đồng bằng lớn trên thế giới bị tác động mạnh nhất do biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Đồng bằng sông Cửu Long đã, đang và sẽ đối mặt với nhiều tác động nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Những thách thức chủ yếu bao gồm: gia tăng nhanh chóng các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và sự hạn chế của tư duy, mô hình phát triển, của công tác quy hoạch, kế hoạch, hạn chế của những cơ chế, chính sách hiện nay đối với đồng bằng sông Cửu Long và thách thức do biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng như các hoạt động trên thượng nguồn sông Mê Công ngoài biên giới nước ta.

Thách thức lớn nhất mà vùng phải đối mặt đó là thách thức từ các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội ở phía thượng nguồn, phát triển kinh tế - xã hội nội tại của đồng bằng sông Cửu Long; những thách thức do tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng dẫn đến làm thay đổi dòng chảy ở các lưu vực sông, suy giảm lượng phù sa, sạt lở bờ sông, sụt lún đất do khai thác nước ngầm quá mức, sự gia tăng xâm nhập mặn, hạn hán;… Thách thức tiếp theo từ những bất cập, hạn chế trong quy hoạch phát triển vùng cũng như sự lỏng lẻo trong thực hiện quy hoạch phát triển vùng. Do thiếu sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương cũng như tính “cục bộ” trong phát triển, dẫn đến tình trạng quy hoạch tổng thể vùng không được bảo đảm; đầu tư dàn trải, sự chồng chéo, cạnh tranh nhau trong cơ cấu phát triển ngành nghề của mỗi địa phương làm cho nguồn lực bị phân tán, tiềm năng của cả vùng không được phát huy.

Những bất cập nêu trên đang và sẽ đe dọa quá trình phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long, sinh kế và đời sống người dân trong vùng nói riêng và cả nước nói chung, qua đó tác động tới khu vực và quốc tế, đặc biệt là vấn đề an ninh lương thực. Ưu thế tự nhiên cho phát triển trước đây và hiện nay của đồng bằng sông Cửu Long sẽ thay đổi theo hướng suy giảm tài nguyên nước và phù sa; sự gia tăng của nước mặn, nước lợ; sụt lún đất và nước biển dâng, sẽ tác động lớn tới tài nguyên đất, cơ cấu sử dụng đất, các hệ sinh thái và môi trường, làm thay đổi căn bản mô hình sản xuất, tập quán sinh hoạt, sinh kế và đời sống của người dân trong vùng.

Là vùng đất có nhiều tiềm năng, lợi thế song hiện cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức, trong đó lớn nhất là nhóm thách thức từ nội tại, nhóm thách thức mang tính khu vực và nhóm thách thức mang tính toàn cầu do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, hạn hán gia tăng, các hiện tượng khí hậu, thời tiết cực đoan,…, do đó, định hình chuyển đổi mô hình phát triển đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu có ý nghĩa quan trọng, được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, chỉ đạo. Rõ ràng, cần phải thay đổi tư duy và mô hình phát triển đồng bằng sông Cửu Long để vượt qua thách thức, biến đồng bằng sông Cửu Long thành một vùng phát triển thịnh vượng, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long

Nhận thức rõ những thách thức cũng như vai trò quan trọng của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước, ngày 17-11-2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nghị quyết đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2050, đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, có trình độ tổ chức xã hội tiên tiến, GDP bình quân đầu người đạt gần 10.000 USD/năm; tỷ trọng nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm trên 80%; độ che phủ rừng đạt trên 5% (so với 4,3% hiện nay), các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng được bảo tồn.

Để phát triển bền vững, việc đảm bảo sinh kế cho người dân phải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Muốn đạt được mục tiêu đó, sự phát triển của đồng bằng sông Cửu Long cần tuân theo các định hướng lớn như: Thứ nhất, kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng trên cơ sở chủ động thích ứng, chuyển hoá được những thách thức, biến thách thức thành cơ hội, bảo đảm được cuộc sống ổn định và khá giả của người dân cũng như bảo tồn được những giá trị truyền thống, văn hoá của đồng bằng sông Cửu Long. Thứ hai, thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy sang tư duy kinh tế nông nghiệp, từ số lượng sang chất lượng gắn với chuỗi giá trị; từ sản xuất nông nghiệp hóa học sang nông nghiệp hữu cơ và công nghệ cao. Chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp. Thứ ba, tôn trọng quy luật tự nhiên, chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên, phát triển bền vững theo phương châm chủ động sống chung với lũ, sống chung với mặn, khô cạn, thiếu nước, phù hợp với điều kiện thực tế.

Để ứng phó với những khó khăn, thách thức, phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long, việc chuyển đổi mô hình phát triển phải được xem xét trong tổng thể chung của vùng, phải lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, trung tâm, làm cơ sở xuyên suốt cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng và cơ sở cho sự chuyển đổi, bảo đảm hài hòa giữa đất, nước, sinh thái và môi trường. Việc chuyển đổi mô hình phải dựa trên hệ sinh thái, phù hợp với quy luật tự nhiên; phải kết hợp giữa công nghệ tiên tiến, hiện đại với tri thức, kinh nghiệm truyền thống bản địa. Quá trình chuyển đổi cần có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho thích ứng với biến đổi khí hậu nhưng cũng phải tận dụng các cơ hội để phát triển kinh tế xanh, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên. Trong chuyển đổi mô hình phát triển phải bảo đảm tính ổn định, sinh kế của người dân; phải lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, Nhà nước đóng vai trò định hướng, dẫn dắt...

Cần có sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy và cách tiếp cận theo hướng mới, hiện đại, phù hợp với thực tiễn, lấy tri thức khoa học công nghệ làm nền tảng, kinh nghiệm thực tiễn trong nước và quốc tế là sức mạnh trong các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long. Các giải pháp đưa ra cần có tính đột phá, khả thi cao, mang tính kết nối liên vùng và nội vùng, có sự thống nhất, kế thừa các chủ trương, chính sách, các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu tại vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được đề ra trong thời gian vừa qua.

Một số giải pháp

Trước hết, cần phân tích, nhận diện đầy đủ các thách thức do biến đổi khí hậu, quá trình phát triển nội tại của vùng đồng bằng sông Cửu Long, các hoạt động sử dụng nguồn nước ở thượng nguồn. Dự báo được các xu thế tác động chính, nhận diện được các cơ hội trong ngắn hạn và dài hạn làm cơ sở cho định hình mô hình phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng như các định hướng chuyển đổi lớn.

Xây dựng một chiến lược tổng thể cho sự chuyển đổi trong phát triển kinh tế-xã hội và các giải pháp toàn diện đáp ứng yêu cầu thích ứng với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long trước các thách thức và tác động. Đây phải là một kế hoạch dài hạn và ở quy mô lớn về không gian cũng như đối tượng cần chuyển đổi, cùng với đó, để phát triển bền vững vùng cần thiết phải sử dụng hợp lý và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong phát triển kinh tế-xã hội gắn liền với công tác bảo vệ môi trường; đề cao vai trò của liên kết nội vùng đồng bằng sông Cửu Long và giữa đồng bằng sông Cửu Long với các vùng, miền trên cả nước, trong đó đặc biệt chú trọng liên kết vùng về kinh tế nhằm tạo ra chuỗi sản phẩm có giá trị cao, sức cạnh tranh lớn. Đồng thời, phải khắc phục được những những bất cập của các quy hoạch ở vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay bởi vùng có quá nhiều quy hoạch dẫn đến chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính liên kết và đồng bộ, chưa kể đến nhiều quy hoạch còn mang tính chủ quan, duy ý chí, không dựa trên cơ sở khoa học, chỉ giải quyết vấn đề mang tính cục bộ địa phương.

Liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu, trong thời gian qua, nhận thức về biến đổi khí hậu đã được nâng cao, ngân sách Trung ương và địa phương đã bước đầu ưu tiên cho các dự án biến đổi khí hậu và đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, trong hoạt động đầu tư vẫn còn dàn trải, lãng phí nguồn lực; ngân sách của Trung ương và địa phương cũng mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu cấp bách của vùng… Vì vậy, cần tiếp tục quan tâm, phối hợp chặt chẽ để xây dựng một Quy hoạch tổng thể chung cho các ngành, các địa phương, từ đó tập trung cân đối, bố trí nguồn ngân sách, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án biến đổi khí hậu; xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp thu hút đầu tư tư nhân, thúc đẩy xã hội hóa trong hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong đó ngân sách nhà nước đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, hỗ trợ các dự án thí điểm;...

Chú trọng quy hoạch định hướng chuyển đổi nông nghiệp bền vững cho các tiểu vùng tại đồng bằng sông Cửu Long; định hướng thủy lợi phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu; các giải pháp chuyển đổi sinh kế bền vững tại đồng bằng sông Cửu Long; thực trạng sạt lở bờ sông, bờ biển vùng đồng bằng sông Cửu Long và các giải pháp ứng phó; các cách tiếp cận chuyển đổi có tính đến rủi ro khí hậu để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững tại đồng bằng sông Cửu Long; quy hoạch tổng thể theo hướng tích hợp phát triển đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo, dự báo về tài nguyên và môi trường, biến đổi khí hậu và cơ sở dữ liệu tích hợp liên ngành, kết nối với Tiểu vùng sông Mê Công và các vùng khác.

Xây dựng cơ chế, chính sách đổi mới có tính đột phá nhằm tận dụng cơ hội chuyển hóa các thách thức thúc đẩy quá trình chuyển đổi, phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long; trong đó, tập trung vào các cơ chế về đất đai, thuế, kiến tạo thị trường, xúc tiến đầu tư, khoa học - công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Xác định các dự án, các nhóm nhiệm vụ, chương trình, đề án, dự án ưu tiên với nguồn lực và lộ trình thực hiện phù hợp trong tổng thể phát triển toàn vùng với sự tham gia của Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức trong và ngoài nước, đặc biệt là người dân và doanh nghiệp trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và các vùng lân cận, nhất là TP. Hồ Chí Minh.

Huy động các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế, các đối tác phát triển tiếp tục quan tâm và hỗ trợ thích đáng cả về kỹ thuật và tài chính cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. Phát huy hơn nữa vai trò của Ủy hội sông Mê Công quốc tế, tăng cường chia sẻ thông tin, quản lý, sử dụng bền vững nguồn nước giữa các nước trong lưu vực sông Mê Công vì sự thịnh vượng chung của toàn vùng; sự tham gia mạnh mẽ của cộng đồng các doanh nghiệp và người dân, phát huy lòng tự hào dân tộc, truyền thống tự cường, vượt khó khăn, gian khổ và trí tuệ của người Việt Nam vì sự phát triển bền vững và thịnh vượng của đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung./.