Quốc hội chính thức thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
09:19, ngày 19-11-2016
TCCSĐT - Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV, ngày 18-11, các đại biểu Quốc hội làm việc tại Hội trường, biểu quyết thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; thảo luận về dự án Luật Du lịch (sửa đổi); Nghị quyết về việc thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam.
Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Với 84,58% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Với 9 Chương, 68 Điều, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Luật áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo. Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo hoặc học tại cơ sở đào tạo tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo hoặc học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Luật cũng quy định chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.
Đặc biệt, để đảm bảo quyền con người theo quy định của Hiến pháp, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định rõ người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
Các tổ chức tôn giáo có quyền hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ; tổ chức sinh hoạt tôn giáo; xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo; cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo được nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tự nguyện tặng cho.
Để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Luật quy định rõ Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.
Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 4) là tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân về các vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; phản biện xã hội đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật; tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ, người theo tín ngưỡng, tôn giáo, các tổ chức tôn giáo và Nhân dân thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Điều 30 Luật quy định về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Theo đó, tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Tổ chức tôn giáo đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng các điều kiện quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 21 của Luật này, đó là có cơ cấu tổ chức theo hiến chương, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục cấp đăng ký pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi là những hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 5 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Luật quy định nghiêm cấm hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Về điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, Luật quy định tổ chức tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho tín đồ tại những nơi chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho những người thuộc tổ chức khi có địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo. Nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung có người đại diện là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo khi có giáo lý, giáo luật, lễ nghi; có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động tôn giáo không trái với quy định của pháp luật; có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở…
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đăng ký hoạt động tín ngưỡng; tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ; quản lý, sử dụng khoản thu từ việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng; trình tự, thủ tục, thẩm quyền chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung.
Cấp thị thực điện tử: Cần chú trọng bảo đảm an ninh quốc gia
Thảo luận Nghị quyết về việc thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam, đa số các đại biểu tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị quyết, nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực du lịch, như thu hút đầu tư, cải cách hành chính theo lộ trình Chính phủ điện tử.
Tuy nhiên, các đại biểu cho rằng việc cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam là vấn đề hệ trọng, liên quan đến an ninh quốc phòng quốc gia, vì vậy Quốc hội, Chính phủ cần quy định chi tiết Bộ Công an, Quốc phòng, Ngoại giao phối hợp chặt chẽ với các địa phương quản lý tốt khách du lịch và nhà đầu tư nước ngoài đến, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ trong quá trình từ khi họ đến, lưu trú đến khi rời khỏi.
Băn khoăn về đối tượng áp dụng của Nghị quyết, một số đại biểu cho rằng việc áp dụng tất cả người nước ngoài được cấp thị thực là quá rộng. Đây là vấn đề mới, chưa được quy định trong Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Mặt khác, nước ta chưa có kinh nghiệm, điều kiện nhân lực, vật lực và các điều kiện cần thiết phục vụ cho công việc này. Nếu áp dụng rộng rãi sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí ảnh hưởng đến tình hình an ninh của đất nước. Vì vậy, đại biểu đề nghị quy định hẹp lại đối tượng, có thể ưu tiên đối với khách du lịch, khách tìm cơ hội đầu tư tại Việt Nam và một số nước truyền thống, một số quốc gia có ký kết quan hệ hợp tác với Việt Nam. Quy định như vậy bảo đảm tính thận trọng, chặt chẽ, phù hợp với quan điểm xây dựng Nghị quyết thực hiện thí điểm.
Về bảo đảm thông tin cá nhân và bảo mật thông tin quốc gia, trong thời gian qua đã có việc xâm nhập dữ liệu hàng không gây sự cố nhất định đến an ninh hàng không, thông tin rò rỉ, vì vậy, nhiều đại biểu đề nghị cơ quan cấp thị thực điện tử cần có các biện pháp cần thiết để bảo đảm an ninh quốc gia, tránh giảm thiểu các trường hợp hoạt động trái mục đích...
Giải trình thêm về nội dung Nghị quyết, Bộ trưởng Công an Tô Lâm cho biết: Bộ Công an đã gửi báo cáo về một số vấn đề liên quan đến dự thảo Nghị quyết để các đại biểu Quốc hội xem xét.
Theo đó, thực hiện quy trình cấp thị thực điện tử, Bộ Công an vẫn thực hiện việc xét duyệt nhân sự chủ động hơn. Một trong những biện pháp quản lý người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam bằng thị thực điện tử khi chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân ở Việt Nam bảo lãnh là việc quy định thị thực điện tử không quá 30 ngày, có giá trị không quá 2 năm.
Trong thời gian thực hiện thị thực điện tử ở Việt Nam 30 ngày, nếu có các cơ quan bảo lãnh, vẫn thực hiện theo quy định của Luật xuất nhập cảnh cư trú và đi lại của người nước ngoài ở Việt Nam. Trước đây, Luật không cho những người nước ngoài đó vào Việt Nam, nhằm thay đổi mục tiêu, sự điều chỉnh này cần thiết phải ban hành Nghị quyết.
Việc ban hành Nghị quyết này khắc phục Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, trường hợp người nước ngoài có mong muốn vào Việt Nam nhưng không có tổ chức, cá nhân bảo lãnh, hoặc không quy định việc khai cấp thị thực điện tử vì hiện nay theo yêu cầu của đối xử đối đẳng ngoại giao với một số nước, Chính phủ đã trình Quốc hội cho kéo dài thời gian hơn so với Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh của người nước ngoài ở Việt Nam.
Về an ninh an toàn mạng, để triển khai việc cấp thị thực điện tử, hệ thống đã được thực hiện từ nhiều năm nay, sẽ tiếp tục kiểm soát để bảo đảm an ninh an toàn. Việc xây dựng hệ thống hóa về cơ bản đã chủ động để bảo đảm triển khai từ 1-1-2017.
Bộ Công an đã thực hiện áp dụng rất nhiều luật giao dịch điện tử. Về cơ sở hạ tầng, để bảo đảm tính khả thi của Nghị quyết được thông qua, đề nghị Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết các cửa khẩu cho phép người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thị thực điện tử, đảm bảo các cơ sở hạ tầng về việc cấp, kiểm soát thị thực điện tử chặt chẽ, an toàn, thống nhất. Bản chất của việc cấp thị thực điện tử vẫn theo đúng quy trình như cũ.
Đối với quan điểm để người nước ngoài sử dụng thị thực điện tử sẽ gây khó khăn cho xử lý đối với trường hợp nhập cảnh sử dụng hộ chiếu ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia, Bộ trưởng khẳng định: Bộ dự kiến mẫu thị thực điện tử tương tự như mẫu thị thực rời, đã dự thảo mẫu trình cùng với hồ sơ của dự thảo Nghị quyết.
Khi cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài vào Việt Nam, không phát sinh vấn đề gì mới so với việc cấp thị thực thông thường hiện nay. Người sử dụng hộ chiếu khác có ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia không đóng dấu cho hộ chiếu đó.
Công tác quản lý hướng dẫn viên du lịch ở Việt Nam còn nhiều bất cập
Thảo luận về dự án Luật Du lịch (sửa đổi), ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, thực trạng hướng dẫn viên du lịch ở Việt Nam hiện nay vừa thiếu, vừa yếu, công tác quản lý còn nhiều bất cập.
Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên liên quan đến việc cấp thẻ hành nghề hướng dẫn viên du lịch. Bên cạnh đó, đội ngũ hướng dẫn viên du lịch còn yếu ở vốn kiến thức, trình độ hiểu biết, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, xử lý tình huống, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ, nhất là các ngoại ngữ hiếm; công tác đào tạo hướng dẫn viên chưa chuyên nghiệp, chưa thống nhất; việc đào tạo, giảng dạy chưa được chuẩn hóa, không thống nhất giữa các hệ đào tạo chuyên ngành du lịch nói chung và hướng dẫn viên du lịch nói riêng. Mặt khác, phần lớn hướng dẫn viên du lịch không xác định làm việc lâu dài nên không có động lực phấn đấu, hoàn thiện. Tình trạng hướng dẫn viên du lịch “chui” xuất hiện ngày càng nhiều ở những điểm du lịch nổi tiếng, cá biệt, có hướng dẫn viên du lịch “chui” là người nước ngoài, nói tiếng nước ngoài, sử dụng bằng tiếng nước ngoài và xuyên tạc lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Hiện nay, trên cả nước chỉ có 9.500 hướng dẫn viên du lịch quốc tế, phục vụ hơn 8 triệu lượt khách nước ngoài du lịch tại Việt Nam và 6 triệu lượt khách Việt Nam ra nước ngoài du lịch trong một năm. Chỉ có 7.150 hướng dẫn viên du lịch nội địa, phục vụ hơn 45 triệu lượt khách du lịch. Ước tính, để phục vụ lượng khách trên, cần tối thiểu 25.000 hướng dẫn viên quốc tế và 20.000 hướng dẫn viên nội địa…
Các đại biểu cho rằng, những quy định của dự thảo Luật về hướng dẫn viên du lịch chưa giải quyết được căn bản công tác quản lý hướng dẫn viên du lịch. Thể hiện ở chỗ, dự thảo Luật chỉ khắc phục tình trạng thiếu hướng dẫn viên bằng cách hạ tiêu chuẩn cấp thẻ hướng dẫn viên mà chưa có quy định về kiểm tra kiến thức, kỹ năng của hướng dẫn viên, việc cấp lại thẻ hướng dẫn viên không có yêu cầu cập nhật kiến thức mới phù hợp với từng thời điểm, từng giai đoạn. Dự thảo Luật không công nhận nhưng cũng không có điều khoản cấm hướng dẫn viên du lịch nước ngoài hành nghề tại Việt Nam, hoặc các quy định, chế tài xử lý cụ thể.
Muốn thúc đẩy ngành du lịch, cần phải đầu tư cho con người, trong đó tập trung nâng cao trình độ, năng lực thông qua đào tạo, đánh giá chất lượng, kiểm tra nghiệp vụ hướng dẫn của các hướng dẫn viên trước khi cấp thẻ để đội ngũ hướng dẫn viên ngày càng chuyên nghiệp hơn.
Về việc xếp hạng cơ sở lưu trú, đại biểu đề nghị nghiên cứu việc xếp hạng cơ sở lưu trú dựa trên nguyên tắc bắt buộc. Thêm vào đó, cần nghiên cứu đưa vào dự thảo Luật nội dung thẩm định lại cơ sở lưu trú để những đơn vị đã được công nhận hạng sao tiếp tục phải đầu tư để duy trì chất lượng khách sạn cũng như chất lượng dịch vụ, tránh tình trạng khi khách sạn đã được công nhận hạng sao, sau một thời gian kinh doanh xuống cấp không chịu đầu tư bảo trì, bảo dưỡng.
Quan tâm đến vấn đề thanh tra du lịch, các đại biểu cho rằng, cần quy định chặt chẽ, minh bạch các nội dung về thanh tra, kiểm tra, đề nghị thành lập lực lượng thanh tra du lịch ở những trọng điểm du lịch.
Giải trình tiếp thu ý kiến của các đại biểu, Bộ trưởng Văn hóa - Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện cho biết, quan điểm sửa đổi Luật, Ban soạn thảo đã nghiên cứu kỹ và tiếp thu nhiều ý kiến, tinh thần là muốn thay đổi cách tiếp cận, sẽ quản lý nhưng hạn chế các quy định cấm, cố gắng kết hợp giữa quản lý nhà nước bằng các quy định của pháp luật và bằng công cụ kinh tế.
“Chúng tôi kết hợp một cách hài hòa để tạo điều kiện ngành du lịch phát triển phù hợp với cơ chế thị trường, nhà nước tạo môi trường sân chơi bình đẳng, lành mạnh, nhà nước sẽ hậu kiểm, sai sẽ thổi còi. Do đó, trong dự thảo Luật lần này rất ít từ “cấm”, Bộ trưởng khẳng định.
Với quy định hướng dẫn viên du lịch, Bộ trưởng giải thích, dự thảo Luật thông thoáng hơn, những quy định không khả thi đều được bãi bỏ. “Nếu quy định chung chung sẽ tạo điều kiện cho sự nhũng nhiễu cho cơ quan cấp phép, nên chúng tôi hủy bỏ và hạ tiêu chuẩn hướng dẫn viên du lịch xuống”.
Đối với vấn đề thanh tra du lịch, Bộ trưởng giải thích, không quy định trong luật chứ không phải bỏ. Sau này, quy định về thanh tra chuyên ngành du lịch sẽ đề nghị Chính phủ có quy định chặt chẽ hơn./.
Với 84,58% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Với 9 Chương, 68 Điều, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Luật áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo. Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo hoặc học tại cơ sở đào tạo tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo hoặc học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Luật cũng quy định chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.
Đặc biệt, để đảm bảo quyền con người theo quy định của Hiến pháp, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định rõ người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
Các tổ chức tôn giáo có quyền hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ; tổ chức sinh hoạt tôn giáo; xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo; cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo được nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tự nguyện tặng cho.
Để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Luật quy định rõ Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.
Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 4) là tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân về các vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; phản biện xã hội đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật; tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ, người theo tín ngưỡng, tôn giáo, các tổ chức tôn giáo và Nhân dân thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Điều 30 Luật quy định về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Theo đó, tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Tổ chức tôn giáo đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng các điều kiện quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 21 của Luật này, đó là có cơ cấu tổ chức theo hiến chương, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục cấp đăng ký pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi là những hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 5 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Luật quy định nghiêm cấm hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Về điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, Luật quy định tổ chức tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho tín đồ tại những nơi chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho những người thuộc tổ chức khi có địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo. Nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung có người đại diện là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo khi có giáo lý, giáo luật, lễ nghi; có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động tôn giáo không trái với quy định của pháp luật; có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở…
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đăng ký hoạt động tín ngưỡng; tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ; quản lý, sử dụng khoản thu từ việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng; trình tự, thủ tục, thẩm quyền chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung.
Cấp thị thực điện tử: Cần chú trọng bảo đảm an ninh quốc gia
Thảo luận Nghị quyết về việc thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam, đa số các đại biểu tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị quyết, nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực du lịch, như thu hút đầu tư, cải cách hành chính theo lộ trình Chính phủ điện tử.
Tuy nhiên, các đại biểu cho rằng việc cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam là vấn đề hệ trọng, liên quan đến an ninh quốc phòng quốc gia, vì vậy Quốc hội, Chính phủ cần quy định chi tiết Bộ Công an, Quốc phòng, Ngoại giao phối hợp chặt chẽ với các địa phương quản lý tốt khách du lịch và nhà đầu tư nước ngoài đến, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ trong quá trình từ khi họ đến, lưu trú đến khi rời khỏi.
Băn khoăn về đối tượng áp dụng của Nghị quyết, một số đại biểu cho rằng việc áp dụng tất cả người nước ngoài được cấp thị thực là quá rộng. Đây là vấn đề mới, chưa được quy định trong Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Mặt khác, nước ta chưa có kinh nghiệm, điều kiện nhân lực, vật lực và các điều kiện cần thiết phục vụ cho công việc này. Nếu áp dụng rộng rãi sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí ảnh hưởng đến tình hình an ninh của đất nước. Vì vậy, đại biểu đề nghị quy định hẹp lại đối tượng, có thể ưu tiên đối với khách du lịch, khách tìm cơ hội đầu tư tại Việt Nam và một số nước truyền thống, một số quốc gia có ký kết quan hệ hợp tác với Việt Nam. Quy định như vậy bảo đảm tính thận trọng, chặt chẽ, phù hợp với quan điểm xây dựng Nghị quyết thực hiện thí điểm.
Về bảo đảm thông tin cá nhân và bảo mật thông tin quốc gia, trong thời gian qua đã có việc xâm nhập dữ liệu hàng không gây sự cố nhất định đến an ninh hàng không, thông tin rò rỉ, vì vậy, nhiều đại biểu đề nghị cơ quan cấp thị thực điện tử cần có các biện pháp cần thiết để bảo đảm an ninh quốc gia, tránh giảm thiểu các trường hợp hoạt động trái mục đích...
Giải trình thêm về nội dung Nghị quyết, Bộ trưởng Công an Tô Lâm cho biết: Bộ Công an đã gửi báo cáo về một số vấn đề liên quan đến dự thảo Nghị quyết để các đại biểu Quốc hội xem xét.
Theo đó, thực hiện quy trình cấp thị thực điện tử, Bộ Công an vẫn thực hiện việc xét duyệt nhân sự chủ động hơn. Một trong những biện pháp quản lý người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam bằng thị thực điện tử khi chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân ở Việt Nam bảo lãnh là việc quy định thị thực điện tử không quá 30 ngày, có giá trị không quá 2 năm.
Trong thời gian thực hiện thị thực điện tử ở Việt Nam 30 ngày, nếu có các cơ quan bảo lãnh, vẫn thực hiện theo quy định của Luật xuất nhập cảnh cư trú và đi lại của người nước ngoài ở Việt Nam. Trước đây, Luật không cho những người nước ngoài đó vào Việt Nam, nhằm thay đổi mục tiêu, sự điều chỉnh này cần thiết phải ban hành Nghị quyết.
Việc ban hành Nghị quyết này khắc phục Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, trường hợp người nước ngoài có mong muốn vào Việt Nam nhưng không có tổ chức, cá nhân bảo lãnh, hoặc không quy định việc khai cấp thị thực điện tử vì hiện nay theo yêu cầu của đối xử đối đẳng ngoại giao với một số nước, Chính phủ đã trình Quốc hội cho kéo dài thời gian hơn so với Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh của người nước ngoài ở Việt Nam.
Về an ninh an toàn mạng, để triển khai việc cấp thị thực điện tử, hệ thống đã được thực hiện từ nhiều năm nay, sẽ tiếp tục kiểm soát để bảo đảm an ninh an toàn. Việc xây dựng hệ thống hóa về cơ bản đã chủ động để bảo đảm triển khai từ 1-1-2017.
Bộ Công an đã thực hiện áp dụng rất nhiều luật giao dịch điện tử. Về cơ sở hạ tầng, để bảo đảm tính khả thi của Nghị quyết được thông qua, đề nghị Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết các cửa khẩu cho phép người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thị thực điện tử, đảm bảo các cơ sở hạ tầng về việc cấp, kiểm soát thị thực điện tử chặt chẽ, an toàn, thống nhất. Bản chất của việc cấp thị thực điện tử vẫn theo đúng quy trình như cũ.
Đối với quan điểm để người nước ngoài sử dụng thị thực điện tử sẽ gây khó khăn cho xử lý đối với trường hợp nhập cảnh sử dụng hộ chiếu ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia, Bộ trưởng khẳng định: Bộ dự kiến mẫu thị thực điện tử tương tự như mẫu thị thực rời, đã dự thảo mẫu trình cùng với hồ sơ của dự thảo Nghị quyết.
Khi cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài vào Việt Nam, không phát sinh vấn đề gì mới so với việc cấp thị thực thông thường hiện nay. Người sử dụng hộ chiếu khác có ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia không đóng dấu cho hộ chiếu đó.
Công tác quản lý hướng dẫn viên du lịch ở Việt Nam còn nhiều bất cập
Thảo luận về dự án Luật Du lịch (sửa đổi), ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, thực trạng hướng dẫn viên du lịch ở Việt Nam hiện nay vừa thiếu, vừa yếu, công tác quản lý còn nhiều bất cập.
Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên liên quan đến việc cấp thẻ hành nghề hướng dẫn viên du lịch. Bên cạnh đó, đội ngũ hướng dẫn viên du lịch còn yếu ở vốn kiến thức, trình độ hiểu biết, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, xử lý tình huống, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ, nhất là các ngoại ngữ hiếm; công tác đào tạo hướng dẫn viên chưa chuyên nghiệp, chưa thống nhất; việc đào tạo, giảng dạy chưa được chuẩn hóa, không thống nhất giữa các hệ đào tạo chuyên ngành du lịch nói chung và hướng dẫn viên du lịch nói riêng. Mặt khác, phần lớn hướng dẫn viên du lịch không xác định làm việc lâu dài nên không có động lực phấn đấu, hoàn thiện. Tình trạng hướng dẫn viên du lịch “chui” xuất hiện ngày càng nhiều ở những điểm du lịch nổi tiếng, cá biệt, có hướng dẫn viên du lịch “chui” là người nước ngoài, nói tiếng nước ngoài, sử dụng bằng tiếng nước ngoài và xuyên tạc lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Hiện nay, trên cả nước chỉ có 9.500 hướng dẫn viên du lịch quốc tế, phục vụ hơn 8 triệu lượt khách nước ngoài du lịch tại Việt Nam và 6 triệu lượt khách Việt Nam ra nước ngoài du lịch trong một năm. Chỉ có 7.150 hướng dẫn viên du lịch nội địa, phục vụ hơn 45 triệu lượt khách du lịch. Ước tính, để phục vụ lượng khách trên, cần tối thiểu 25.000 hướng dẫn viên quốc tế và 20.000 hướng dẫn viên nội địa…
Các đại biểu cho rằng, những quy định của dự thảo Luật về hướng dẫn viên du lịch chưa giải quyết được căn bản công tác quản lý hướng dẫn viên du lịch. Thể hiện ở chỗ, dự thảo Luật chỉ khắc phục tình trạng thiếu hướng dẫn viên bằng cách hạ tiêu chuẩn cấp thẻ hướng dẫn viên mà chưa có quy định về kiểm tra kiến thức, kỹ năng của hướng dẫn viên, việc cấp lại thẻ hướng dẫn viên không có yêu cầu cập nhật kiến thức mới phù hợp với từng thời điểm, từng giai đoạn. Dự thảo Luật không công nhận nhưng cũng không có điều khoản cấm hướng dẫn viên du lịch nước ngoài hành nghề tại Việt Nam, hoặc các quy định, chế tài xử lý cụ thể.
Muốn thúc đẩy ngành du lịch, cần phải đầu tư cho con người, trong đó tập trung nâng cao trình độ, năng lực thông qua đào tạo, đánh giá chất lượng, kiểm tra nghiệp vụ hướng dẫn của các hướng dẫn viên trước khi cấp thẻ để đội ngũ hướng dẫn viên ngày càng chuyên nghiệp hơn.
Về việc xếp hạng cơ sở lưu trú, đại biểu đề nghị nghiên cứu việc xếp hạng cơ sở lưu trú dựa trên nguyên tắc bắt buộc. Thêm vào đó, cần nghiên cứu đưa vào dự thảo Luật nội dung thẩm định lại cơ sở lưu trú để những đơn vị đã được công nhận hạng sao tiếp tục phải đầu tư để duy trì chất lượng khách sạn cũng như chất lượng dịch vụ, tránh tình trạng khi khách sạn đã được công nhận hạng sao, sau một thời gian kinh doanh xuống cấp không chịu đầu tư bảo trì, bảo dưỡng.
Quan tâm đến vấn đề thanh tra du lịch, các đại biểu cho rằng, cần quy định chặt chẽ, minh bạch các nội dung về thanh tra, kiểm tra, đề nghị thành lập lực lượng thanh tra du lịch ở những trọng điểm du lịch.
Giải trình tiếp thu ý kiến của các đại biểu, Bộ trưởng Văn hóa - Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện cho biết, quan điểm sửa đổi Luật, Ban soạn thảo đã nghiên cứu kỹ và tiếp thu nhiều ý kiến, tinh thần là muốn thay đổi cách tiếp cận, sẽ quản lý nhưng hạn chế các quy định cấm, cố gắng kết hợp giữa quản lý nhà nước bằng các quy định của pháp luật và bằng công cụ kinh tế.
“Chúng tôi kết hợp một cách hài hòa để tạo điều kiện ngành du lịch phát triển phù hợp với cơ chế thị trường, nhà nước tạo môi trường sân chơi bình đẳng, lành mạnh, nhà nước sẽ hậu kiểm, sai sẽ thổi còi. Do đó, trong dự thảo Luật lần này rất ít từ “cấm”, Bộ trưởng khẳng định.
Với quy định hướng dẫn viên du lịch, Bộ trưởng giải thích, dự thảo Luật thông thoáng hơn, những quy định không khả thi đều được bãi bỏ. “Nếu quy định chung chung sẽ tạo điều kiện cho sự nhũng nhiễu cho cơ quan cấp phép, nên chúng tôi hủy bỏ và hạ tiêu chuẩn hướng dẫn viên du lịch xuống”.
Đối với vấn đề thanh tra du lịch, Bộ trưởng giải thích, không quy định trong luật chứ không phải bỏ. Sau này, quy định về thanh tra chuyên ngành du lịch sẽ đề nghị Chính phủ có quy định chặt chẽ hơn./.
Lào: Một loạt vấn đề quan trọng của đất nước được thông qua  (18/11/2016)
Chủ tịch nước sẽ thăm Italy, Vatican và Madagascar  (18/11/2016)
Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã đến Peru tham dự APEC 2016  (18/11/2016)
Chủ tịch nước Trần Đại Quang gửi điện cảm ơn Chủ tịch Cuba Raul Castro  (18/11/2016)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên