TCCSĐT - Ngày 8-11, Quốc hội cũng thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; dự thảo Nghị quyết về chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp. Chiều cùng ngày, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011.

* Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, đa số đại biểu nhất trí rằng, do thời gian không còn nhiều (tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp vào tháng 5- 2011) nên trong lần sửa đổi này chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung một số vấn đề thực sự cần thiết, nhằm góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác tổ chức bầu cử khi tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội Khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 trong cùng một ngày. Hơn nữa, để sửa đổi căn bản, toàn diện cơ chế, phương thức tổ chức bầu cử đòi hỏi phải sửa đổi từ Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cũng như các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước.

Về thời gian công bố ngày bầu cử, thực hiện các quy trình cho công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, phần lớn đại biểu đều thống nhất nâng thời gian lên tổng cộng là 120 ngày thay vì 105 ngày như trước đây. Theo đó, thời gian thành lập hội đồng bầu cử ở cấp Trung ương, ủy ban bầu cử ở các tỉnh thành phố, ban bầu cử ở mỗi đơn vị bầu cử cũng có số ngày tăng lên tương ứng, thời hạn niêm yết danh sách cử tri trước ngày bầu cử cũng cần được tăng thêm để bảo đảm thuận lợi cho cử tri theo dõi, kiểm tra.

Đề cập đến số người trong danh sách ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử, đại biểu Lương Phan Cừ (Đắk Nông)nêu, thực tế gần đây, trong danh sách bầu ban chấp hành các cơ quan của Đảng, cán bộ chủ chốt cũng đã có tỷ lệ dư nhất định, 10%, 15% thậm chí là cao hơn, có những vị trí có 2 ứng cử viên. Những đổi mới này đã được đông đảo cán bộ, đảng viên, cử tri hưởng ứng đồng tình và đã phần nào nâng cao chất lượng đại biểu các cơ quan chức năng này, khắc phục dần việc bầu cử chỉ mang tính hình thức. Nay dự thảo luật quy định "nếu đơn vị bầu cử được bầu ba đại biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ít nhất là hai người. Trong trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng thì do Hội đồng bầu cử quyết định". Như vậy vẫn chưa rõ, cần quy định cứng số dư tại mỗi đơn vị bầu cử phải ít nhất là hai người, còn có thể là 3, 4, 5, tùy thuộc vào quá trình lựa chọn danh sách bầu cử.

Về số lượng đại biểu chuyên trách, nhiều đại biểu đề nghị, khóa tới nên tăng lên ít nhất 35% và thành phần nên có đại diện các dân tộc, các tầng lớp nhân dân.

Về tiêu chuẩn đại biểu; công khai tài sản, sự tín nhiệm của cử tri ở nơi cư trú đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hoàng Thị Bình (Cao Bằng), Nguyễn Hồng Nhị (Nghệ An), Nguyễn Duy Nguyên (Hải Dương) cho rằng, cần cụ thể hóa tiêu chuẩn, có định lượng rõ ràng, cụ thể về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, đạo đức... trong văn bản dưới luật để cử tri xem xét, lựa chọn. Việc kê khai tài sản của người ứng cử là cần thiết và phải thực hiện công khai tại nơi cư trú và nơi công tác.

Thảo luận Dự thảo Nghị quyết về chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp, các đại biểu tập trung vào 3 nhóm vấn đề, trong đó có: những đối tượng được miễn và giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, thời hạn miễn giảm thuế trong thời gian 5 năm hay 10 năm. Đa số các đại biểu thống nhất cao với Tờ trình của Chính phủ về việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương miễn giảm thuế và thời gian giảm thuế.

Các đại biểu kiến nghị, với những diện tích được sử dụng đúng mục đích, đúng quy hoạch thì miễn thuế toàn bộ diện tích để tạo điều kiện cho nông dân mở rộng sản xuất, tiến tới sản xuất lớn, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp bền vững. Các đại biểu đề xuất thời hạn miễn thuế nên thực hiện trong 10 năm, từ 2011 – 2020 sau đó sẽ tính tới việc miễn thuế lâu dài cho dân.

Đối với những đơn vị, doanh nghiệp được giao đất, được miễn thuế nhưng lại sử dụng sai mục đích, gây tình trạng bức xúc lâu nay trong dư luận, các đại biểu kiến nghị, trước mắt, thu thuế gấp 2 - 3 lần so với định mức thu đất nông nghiệp, về lâu dài, tiến hành thu hồi đất giao lại cho người dân tiến hành sản xuất.

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. Chiều 8-11, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên, Quốc hội đã nghe Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu về một số vấn đề kinh tế - xã hội và Dự thảo Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2011.

Thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Hà Văn Hiền, cho biết, đại đa số ý kiến đại biểu Quốc hội phát biểu tại tổ, tại hội trường đều nhất trí với các nội dung nêu trong Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Các ý kiến thống nhất đánh giá, mặc dù kinh tế thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức, về cơ bản Việt Nam đã đạt được mục tiêu tổng quát. Theo đó, tổng thể kinh tế vĩ mô nói chung ổn định; kinh tế phục hồi nhanh, tăng trưởng kinh tế đạt 6,7% ( kế hoạch đề ra là 6,5%), xuất khẩu ước đạt 19,1%, (gấp 3 lần so với kế hoạch); an sinh xã hội được bảo đảm; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững…

Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Hà Văn Hiền cũng cho biết, các ý kiến của các đại biểu cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém cần khắc phục: kinh tế tăng trưởng nhưng chưa bền vững; tỷ lệ nhập siêu lớn; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; kết cấu hạ tầng còn yếu kém; bội chi ngân sách quá cao; giá cả nhiều mặt hàng và mặt bằng giá chung tăng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ lạm phát cao trở lại; một số vấn đề bức xúc chậm giải quyết…

Quốc hội đã biểu quyết thông qua toàn bộ dự thảo Nghị quyết với 84,58% số đại biểu tán thành. Trong đó, các chỉ tiêu chủ yếu được thông qua là: GDP tăng 7-7,5% so với năm 2010; kim ngạch xuất khẩu năm 2011 tăng 10% so với năm 2011; nhập siêu không vượt quá 18% kim ngạch nhập khẩu; tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng 40% GDP; chỉ số giá tiêu dùng không quá 7%. Các chỉ tiêu về xã hội bao gồm 8 chỉ tiêu, trong đó tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động, trong đó đưa 8,7 vạn lao động đi làm việc ở nước ngoài; mức giảm tỷ lệ sinh là 0,2‰; giảm tỷ lệ hộ nghèo 2% theo chuẩn mới, riêng 62 huyện nghèo giảm 4%...

Trong các chỉ tiêu về môi trường, có tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh 86%; tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch 78%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý 69%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 55%; tỷ lệ che phủ rừng 40%...

Một số nhiệm vụ, giải pháp chính để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 cũng được thông qua:

Một là, chỉ đạo, thực hiện các giải pháp để tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển như: áp dụng các biện pháp để tăng mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu; cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư; cân đối ngoại tệ quốc gia, thu chi ngân sách; quản lý chặt thị trường vàng, việc lưu hành ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ; áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ nợ công, cơ cấu nợ công và ổn định giá trị đồng tiền, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia…

Hai là, thực hiện các giải pháp chuyển dịch cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế mà trước hết là điều chỉnh cơ cấu đầu tư, bao gồm cơ cấu đầu tư trong từng ngành, từng lĩnh vực, cơ cấu nguồn vốn theo hướng giảm đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn vốn đầu tư.

Ba là, triển khai kịp thời các chính sách bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội. Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội và môi trường bức xúc.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Năm là, tăng cường đào tạo, chú trọng xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.

Sáu là, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế./.